Trong động Tuyết sơn – Vị Đạo sư

Do nhiều biến cố ngoài ý muốn, Tenzin bất đắc dĩ phải đảm nhiệm vai trò giảng sư. Cô không hề vạch ra kế hoạch thay đổi lạ lùng này, cũng không thích thú gì mấy trách nhiệm lãnh đạo tinh thần đó; cô chỉ thích sống yên tịnh và cô liêu để đạt mục tiêu thành đạo của cô; nhưng những đòi hỏi cấp bách về tài chánh để thành lập một Ni viện giúp cho các nữ tu khác bắt buộc Tenzin phải thay đổi kế hoạch của riêng mình và đứng lên đảm trách công tác nặng nề này.

Muốn mua một mảnh đất gần Tashi Jong để xây tu viện phải cần tới hàng 100.000 đô la để mua gạch, xi-măng, cát, đá, v.v… ; vì thế, Tenzin đã đi thuyết giảng hết trung tâm Phật giáo này sang tu viện khác, giảng cho nhóm nghiên cứu này sang nhóm tu học nọ, trao đổi, góp ý kinh nghiệm cá nhân về tâm linh cũng như trí tuệ 30 năm tu học của cô để quyên góp tiền bạc. Mặc dù công tác hoằng dương Phật pháp và lạc quyên rất khó nhọc, và trải qua những tuần, những tháng, những năm dài đi khắp mọi nơi trên thế giới để thuyết giảng, Tenzin vẫn ôn hòa kiên nhẫn, bình tâm, và cư xử bình đẳng trân trọng đối với mọi người (người cho 5 đô la hay người cho 5000 đô la đều ngang hàng nhau, không thiên vị, phân biệt).

Tenzin tâm sự:

– “Các vị Lạt Ma cao cấp đã cầu nguyện và nói công tác xây cất nữ tu viện này sẽ thành tựu. Tôi rất tin tưởng và an tâm tiếp tục, không nản chí.”

“Có nhiều lúc tôi nghĩ làm sao tôi có thể đảm nhiệm trọng trách này, tôi cũng không biết nữa. Nếu cách đây vài năm, có người nói với tôi rằng nên đi thuyết giảng khắp thế giới để quyên tiền, chắc tôi nghĩ là họ đã điên rồi. Nhưng bây giờ, nếu tôi không làm thì ai làm đây? Và đó cũng là cách báo ơn Sư Phụ của tôi.”

Dòng thời gian cứ lặng lẽ trôi qua. Tenzin bắt đầu chương trình du thuyết của cô tại Singapore năm 1994, một năm sau khi cô trình bày quan điểm của cô về tình trạng Ni giới lên Đức Đạt Lai Lạt Ma. Cô không chuẩn bị nên vừa đến Singapore, cô gặp trắc trở liền. Không một ai biết Tenzin là ai, thế nào, và họ cũng không biết là cô đã đến Singapore. Trong lúc bối rối đó, cô bỗng gặp lại một người quen cũ, một người phụ nữ Trung Hoa tên Wong Pee Lee. Thật là một sự gặp gỡ kỳ thú, vì đêm trước Wong Pee Lee đã nằm mơ thấy Tenzin đứng giữa các nữ thần Dakinis lộng lẫy với xiêm y lụa là đủ mầu sắc. Trong giấc mơ, Wong Pee Lee nghe văng vẳng một giọng nói vang lên: “Đã đến lúc nhà ngươi phải giúp đỡ các phụ nữ khác !”

Tenzin nói cho Wong Pee Lee biết về mục đích xây Ni viện của cô. Giấc mơ của Wong Pee Lee đã ứng nghiệm. Wong Pee Lee bắt tay thực hiện và buổi thuyết trình đầu tiên của hàng trăm buổi giảng khác về sau được tổ chức với sự giúp đỡ ủng hộ của rất đông người. Từ Singapore, Tenzin du thuyết xuyên qua Đông Nam Á, vòng quanh Mã Lai Á (Malaysia), Đài Loan (Taiwan), Brunei, Hồng Kông, Sarawak, Nam Dương (Indonesia), Cao Miên (Cambodia), Phi Luật Tân (The Philippines), rồi tới nước Anh, Pháp, Hoa Kỳ qua các tiểu bang Washington, Seatle, Nữu Ước, Maryland, Vermont, Hạ uy Di; và qua lại vùng biển California trước khi trở về Á Châu và lại đi thuyết giảng một vòng khắp các nước khác. Mỗi lần tổ chức thuyết giảng đều có người giúp Tenzin soạn thảo chương trình. Bất cứ nơi nào cô đến đều đông đảo người nghe và họ rất quan tâm đến những kinh nghiệm sống tâm linh của một nữ tu sĩ ẩn cư 12 năm trong động tuyết. Họ khát khao được nghe giáo pháp và náo nức xem Tenzin chuyển đạt kinh nghiệm tâm linh của cô như thế nào. Họ đã không thất vọng. Tenzin đã chứng tỏ cô là một giảng sư, một đạo sư xuất sắc. Tenzin đã nói với tất cả sự chân thành tận đáy tâm hồn cô, không cần giấy, không cần chuẩn bị, và với lời nói cứ tuôn ra đều đặn trong suốt như pha lê. Đại chúng đã uống từng lời nói của Tenzin và từng vấn đề của họ đã được Tenzin giải đáp. Hơn thế nữa, tất cả mọi người như cảm nhận được làn sóng tâm linh của cô trong những năm dài ẩn cư thiền định. Tenzin không nói vòng vo tam quốc mà trực thẳng vào trung tâm vấn đề một cách chân thành, cởi mở, thực tiễn, thẳng thắn, và đầy thông minh, sắc sảo. Tenzin khác hẳn với các triết gia hay các giảng sư khác chứa đầy những kinh sách chữ nghiã vay mượn; cô nói bằng chính sự chứng nghiệm cá nhân thực thụ, bằng sự nỗ lực tinh cần tu tập bền lâu, bằng niềm tin sắt đá vào Tam Bảo, và Trí Tuệ Từ Bi khai phóng tự nhiên.

Đối với các vị Lạt Ma Tây Tạng khác gặp nhiều khó khăn trong công tác hoằng dương truyền bá Phật pháp qua Tây Phương vì ngôn ngữ bất đồng, văn hóa sai biệt và trình độ Anh ngữ của các sư còn quá kém, nhất là giáo lý Phật giáo Mật Tông lại quá thâm sâu khó hiểu; Tenzin được thuận duyên hơn khi giảng giải Phật giáo đến các người Âu Mỹ, vì tiếng Anh là ngôn ngữ mẹ đẻ của cô và dù sao đi nữa, là người bản xứ, Tenzin quen với phong tục tập quán Âu Mỹ hơn các vị tu sĩ Tây Tạng. Cô đã đi từ trung tâm thiền viện Phật giáo Tây Tạng này qua những nhóm thiền sinh khác, giảng Thiền Minh Sát cho các tín đồ cộng đồng Thiên Chúa Giáo, ngay cả những nhóm phi tôn giáo cũng chịu tu tập nghiên cứu giáo lý; và càng hoạt động Phật sự, tiếng tăm Tenzin càng nổi lên như cồn bởi đức hạnh và trí tuệ uyên bác của cô.

Khi giảng cho một nhóm nghiên cứ trị liệu pháp ở Seatle, Tenzin đã nói:

– “Đầu óc chúng ta như bãi chứa đồ phế thải. Cái gì chúng ta cũng chất chứa vào cái bãi đó. Những buổi tranh luận, hội thảo, hội họp báo chí, những trò chơi giải trí, v.v… chúng ta đều chất chồng trong đầu óc chúng ta, và đó là lý do vì sao chúng ta mệt mỏi quá. Chúng ta mệt mỏi vì chúng ta ôm đồm quá, tham lam quá nên không chịu buông bỏ gì hết.

“Tôi rất hoan nghinh công việc các bạn đang làm. Các bạn chọn công việc này không phải chỉ vì miếng ăn sự sống – nếu chỉ là kiếm sống thì dễ quá – nhưng các bạn chọn công việc này vì các bạn muốn giúp đỡ người khác. Các bạn đã cho đi tất cả những gì các bạn có, và các bạn cũng cần tiếp thu lại, nếu không, đầu óc các bạn sẽ giống như những cái thùng rỗng tuếch. Chúng ta luôn luôn cho đi và nhận lại, cho đi và nhận lại.”

“Người ta thường nghĩ rằng mỗi khi họ mệt, cần phải nghỉ ngơi thì họ bật TV lên, hay ra ngoài dạo phố, hoặc uống vài ly bia rượu, v.v… nhưng thực ra, những thức đó không giúp được gì mà trái lại, còn nhồi nhét sự mỏi mệt thêm vào đầu óc vốn đã căng thẳng vì bao công việc – ngay cả giấc ngủ cũng chưa chắc đã là sự nghỉ ngơi thực sự.

“Muốn được yên nghỉ thực sự và hoàn toàn, chúng ta cần chuẩn bị sẵn cho chúng ta một khoảng trống vắng, yên tịnh tâm linh. Chúng ta cần dọn dẹp sạch sẽ đống rác trong cái bãi chứa, và lắng đọng lại những tiếng động bên trong, và phương cách thực hiện để tìm sự yên tịnh tâm hồn là Thiền Quán trong Tỉnh Thức. Đó là phương cách hữu hiệu nhất để giúp cho đầu óc chúng ta được nghỉ ngơi nhưng nhậy bén. Chỉ cần 05 phút thôi, chúng ta sẽ cảm thấy con người chúng ta tươi mát trở lại, tinh xảo trở lại, minh mẫn trở lại, nhậy bén trở lại.”

“Người ta hay nói: “Tôi không có thì giờ để thiền, không có thì giờ để nghỉ, không có thì giờ để làm cái này cái nọ, v.v..” Điều đó không đúng. Chúng ta có thể thiền khi đi dọc hành lang sở làm hay nhà, khi đợi máy vi tính thay đổi những chương trình, hay khi chúng ta dừng xe ở đèn đỏ các ngã tư, khi đứng xếp hàng, khi vào phòng tắm, hay cả khi chải đầu. Chúng ta hãy tỉnh giác trong từng giây phút, ý thức trong từng hành động. Chúng ta thử chọn một việc làm nào đó trong ngày và tập trung hoàn toàn tư tưởng vào nó, và rồi chúng ta sẽ thấy kết quả ngoài ý muốn – Một sự thư giản và tỉnh thức thức trọn vẹn .

“Thiền định không phải là chỉ ngồi yên trong hang động cả 12 năm, mà chính là phải tu tập từng phút, từng ngày. Chúng ta thực tập hạnh bố thí, nhẫn nhục, tinh tấn ở đâu? Pháp Phật không phải là những giáo điều nói suông, rỗng tuếch – Pháp Phật vi diệu ở nơi thực hành để chuyển hóa tâm thức; những sự chuyển hóa tâm thức đó sẽ không bao giờ đạt được kết quả nếu chúng ta mê muội cho là chỉ cần ngồi yên thiền định và không hiểu biết lý lẽ của các pháp vốn biến chuyển sinh diệt từng giây phút trong dòng sinh mệnh của con người. Lý do đơn giản là chúng ta đã quên, đã đánh mất đi thực tại.”

Chúng ta nghĩ giác ngộ là một cái gì thật là to lớn, thật vĩ đại, thật phi thường – nhưng chúng ta đã lầm.

“Giác ngộ chân lý thật ra vô cùng đơn giản, nó ở ngay trước mắt chúng ta, ngay trong phút giây hiện tại và bây giờ. Và một khi chúng ta ý thức được hiện tại, chúng ta giác ngộ được chân lý.

“Tiếng Sanskrit gọi là Tâm Thức là “Smriti”, tiếng Pali gọi nó là “Sati”, và tiếng Tây Tạng là “Drenpa”. Nói chung, tất cả đều có nghiã là “Hồi tưởng, Nhớ lại”. Khái niệm đó quả không dễ hiểu. Nếu Tâm Thức còn có một nghiã “Hồi Tưởng, Nhớ” thì kẻ thù của nó là “Quên Lãng”. Chúng ta chỉ tỉnh thức trong chốc lát và rồi chúng ta lại quên. Quên rồi nhớ, nhớ rồi quên. Vấn đề rắc rối là ở chỗ đó, vì sao? Bởi vì chúng ta không có thói quen nhớ nên cứ hay quên.

Cái đau khổ nhất của con người là họ luôn nhìn sự vật qua lăng kính khái niệm, phán xét, hay suy diễn. Thí dụ như khi chúng ta nhìn một người nào đó, chúng ta không nhìn đúng người đó đang là, mà chúng ta nhìn người đó qua sự liên hệ giữa ta và người đó, qua tình cảm cá nhân chúng ta thích hay không thích họ, hay người đó gợi cho chúng ta nhớ lại kỷ niệm gì, hình bóng nào, hoặc là người đó có những đức tính hay cá tánh gì hợp với chúng ta – Đối với tất cả sự vật, chúng ta đều đánh giá qua những giác quan thấy, nghe, nếm, ngửi, sờ mó, cộng thêm suy tưởng và kinh nghiệm của chúng ta. Và rồi, ý thức và kinh nghiệm đó đã đánh lừa chúng ta và biến chúng ta thành những con người máy móc, điều kiện. Hễ ai bấm nút thì người máy đó cử động, nói năng.”

“Có người sẽ nghĩ rằng “Vậy thì đã sao đâu? Có gì quan trọng đâu?” Nhưng rồi chúng ta sẽ dần dần tách rời thực tại, quên lãng kinh nghiệm, và chúng ta đánh mất luôn con người thật của chính chúng ta.

“Những gì chúng ta cần làm là đem tất cả sự vật trở về lại nguyên vẹn hình hài, bản thể của chúng, và nhìn vạn vật “y như chúng “đang là”; giống như cái nhìn trong sáng, hồn nhiên của đứa bé con không đối đãi, không phân biệt. Đứa bé con nhìn mầu sắc và các hình dáng không qua một lăng kính phán xét nào, đánh giá nào; tâm hồn đứa bé thật tươi mát, trong trắng làm sao ! Đó, trạng thái hồn nhiên tự tại đó chính là cái mà chúng ta phải có trở lại, phải áp dụng trở vào lại đời sống hàng ngày của chúng ta. Nếu chúng ta có thể tập làm được như vậy, tự nhiên chúng ta sẽ chuyển hóa được chính mình và ngoại cảnh.”

“Ngài Milarepa đã từng nói: “Càng nhiều sóng gió, càng thêm hưng phấn”, bởi vì ngài đã cưỡi lên được đầu ngọn sóng phiền não và lèo lái ngọn sóng đó một cách khéo léo và thăng bằng.

“Đứng ở một lập trường quan điểm trí tuệ, chúng ta cũng nên thích ứng trở thành một con cọp hơn là một chú thỏ con hiền lành. Những chú thỏ thì rất dễ thương, mũm mĩm, nhưng chúng nó không có đủ năng lực để vượt qua trở ngại. Trái lại, những con cọp dù hung dữ, nhưng với năng lực mạnh mẽ sẵn có, nếu biết sử dụng khéo léo, thì năng lực đó chính là sự cần thiết quan trọng nhất để đối địch chốn rừng sâu của loài cọp.

Những cuộc thách đố

Từ một người ẩn cư trong hang động cô liêu, Tenzin đã phóng mình ra khỏi quỹ đạo của mình để đi vào thế giới trần tục đầy u ám, phiền muộn. Từ một người sống yên tĩnh, Tenzin đã phải nói suốt hàng giờ không ngưng nghỉ. Từ một cuộc sống giản dị đơn thuần, Tenzin đã nhẩy vào cuộc chơi của cuối thế kỷ thứ 20 này; và thế giới mà cô tham dự trở lại đó thật khác xa hoàn toàn cái thế giới mà cô đã bỏ ra đi để tới Ấn độ năm 1963.

Tenzin đã chứng kiến những khủng hoảng, bất an, căng thẳng của một nền văn minh xã hội vật chất dồn dập lên con người; đã thấy tình trạng thất nghiệp leo thang, và đời sống bấp bênh, không biết ngày mai của những kẻ vô gia cư, vô nghề nghiệp. Cô cũng đã đọc báo viết về mức độ tội ác bạo lực gia tăng và vấn đề sử dụng buôn bán ma túy càng ngày càng lan rộng trong xã hội. Cô cũng đã tận mắt trông thấy các bạn cô chạy đua tốc độ đến bở hơi tai theo nhịp sống vật chất cuồng loạn này. Đi đến đâu, cô cũng nghe các cấp chính quyền rao gọi thay đổi chính sách phục vụ cộng đồng cho nền kinh tế duy lý, và bây giờ lại đến những nhu cầu xa hoa mới như sự yên tĩnh, không gian, thời gian, và sinh thái môi trường, và cô cũng nhận thức rõ sự cần thiết cấp bách cho những giá trị tâm linh trong một xã hội thăng tiến vật chất kinh khủng này. Tenzin nói:

– “— đây, người ta nung nấu vì ham muốn. Khác với ở Lahoul, người dân sung mãn về tinh thần hơn dù đời sống tiện nghi văn minh vật chất quả thật thua kém; và ở đây, ngoài vật chất ra, người ta cũng khao khát tìm tòi một cái gì đó sâu xa và có ý nghĩa hơn trong đời sống của họ. Khi người ta dừng lại những đam mê bản năng, thì người ta lại theo đuổi những nhu cầu khác. Vì thế,con người luôn luôn thất vọng, chán nản, và bức rức. Họ cảm thấy đời sống và mọi thứ sao phi lý, vô nghĩa quá. Họ đã có những gì họ muốn, nhưng rồi sao? Xã hội cứ thôi thúc bắt ép con người ta chiếm hữu hết cái này đến cái khác, nhưng rồi cuối cùng con người sẽ về đâu?

“Tôi đã thấy sự cô đơn đang ngự trị khắp nơi, và con người chán nản không muốn hoạt động gì nữa khi cô đơn. Đó là trạng thái tâm lý hững hờ, lãnh đạm, lệch lạc.”

Nhưng đặc biệt hơn những câu chuyện của Tenzin là vào giữa những năm 90, nhánh cây Phật giáo và nền triết lý thâm sâu, mật hiển đã sanh sôi nẩy mầm trên mảnh đất màu mỡ Tây Phương và người dân Âu Mỹ đã bắt đầu tìm hiểu một tôn giáo phương Đông với cái nhìn đúng đắn hơn, trưởng thành hơn, và khách quan hơn – và rồi từ đó, dân chúng gồm đủ mọi thành phần, mọi lứa tuổi ở Âu Châu, Hoa Kỳ, Gia nã Đại, Úc Châu và Tân Tây Lan đều hết sức ngưỡng mộ thán phục nền triết học uyên bác vĩ đại của Phật giáo và hết lòng cung kính các vị Lạt Ma đức hạnh đã truyền bá đạo Phật sang Âu Mỹ. Kết quả rỡ ràng của sự hoằng pháp thành công này là các trung tâm thiền đường Phật giáo, nhất là Phật giáo Tây tạng, đã mọc lên như nấm trên khắp thế giới. Những thời kỳ thịnh vượng của Phật giáo tại Âu Mỹ nay đã suy rồi. Nhưng tín đồ buổi đầu tiên đó, sau 30 năm nghiên cứu thực hành giáo lý, đã bắt đầu tìm hiểu tính chất nhân bản và thực tiễn hơn của nền tôn giáo đang trồng rễ trên đất nước họ. Những nhược điểm và sự không nhất quán trong nội bộ đồng loạt bị phơi bày ra, và có thể nói, khi Đông Phương bị ràng buộc bởi hàng rào tập tục luân lý xã hội thì Tây Phương, được tự do ngôn luận hơn, không có những đắn đo, ngại ngùng, hay e dè nào cả, sẵn sàng nói huỵch tẹt ra mọi việc.

Tenzin Palmo đã trở về lại cái thế giới trần tục này ngay trong giai đoạn rộn ràng đó; và những cuộc tranh luận, bàn cãi, thách đố nhau công khai, hay những mâu thuẫn trường phái đố kỵ lẫn nhau đã vô tình giúp cho cô tự tìm ra con đường của chính mình.

Những lũng đoạn trong Tăng đoàn Phật giáo ở Âu Mỹ bắt nguồn từ những tật xấu lợi dưỡng cá nhân của các vị Tăng sĩ. Theo Phật giáo Tây Tạng, vai trò và cương vị của vị đạo sư rất quan trọng. Các tín đồ kính ngưỡng vị đạo sư của mình như một vị Phật. “Đạo sư (guru) là Phật, Đạo sư là Pháp, Đạo sư là Tăng.” Từ sự suy tôn đó, người ta thần thánh hóa vị đạo sư và cho tất cả những gì vị đạo sư đó nói đều đúng, đều thật, và họ đã vô tình tôn vinh bản ngã ông đạo sư để rồi đưa đến những hậu quả thảm hại, ê chề. Ông đạo sư cũng vẫn còn bằng xương bằng thịt, đã chứng quả Thánh gì đâu, nên những sự cúng dường tôn sùng quá mức đã làm nảy sinh tâm tham đắm mê muội. Ví dụ như trường hợp của Chogyam Trungpa, người thầy hướng dẫn tâm linh và cũng là người bạn đầu tiên của Tenzin Palmo, đã để lại bao nhiêu là tai tiếng bê bối sau khi ông ta qua đời năm 1987. Trungpa không những đắm chìm trong men rượu mà còn liên hệ tình dục với các nữ tín đồ hay đệ tử của ông ta. Nhiều người đã than phiền và tố cáo hành vi sai trái xúc phạm danh tiết phụ nữ của Trungpa; họ còn cho biết là cuộc đời họ thực sự đã bị phá hủy bởi ông này. Kinh khủng hơn nữa là người đệ tử kế thừa của Trungpa, Thomas Rich, pháp danh là Osel Tendzin, sanh tại Mỹ, không những đã nhiễm căn bệnh nguy hiểm AIDS mà ông ta đã hết sức dấu kín, mà còn lây luôn cho một nữ đệ tử trong số hàng loạt các nữ tín đồ dấu tên của ông ta. Đó là một vài trường hợp điển hình trong số rất nhiều vụ tai tiếng bê bối của các vị đạo sư ở Âu Mỹ.

Các nữ tín đồ thật vô cùng ngây thơ khi bị các ông thầy lừa bịp nói là các cô đã được tuyển chọn để làm vợ các ông trong sự liên hệ “thần bí” theo phái Mật tông Tây Tạng; vì thế, các cô rất ư là hãnh diện và sung sướng là mình đã trúng tuyển đặc biệt. Niềm tin mù quáng vào ông thầy đã khiến các cô bị lừa bịp thảm thương và đồng thời cũng gây tiếng xấu ảnh hưởng đến Tăng đoàn Phật giáo. Tenzin Palmo nhận xét rằng người phụ nữ Tây Phương còn kém kinh nghiệm và không hiểu biết phải làm thế nào để tìm cho được một vị minh sư, và ngay cả đến ý nghĩa thế nào là một vị đạo sư chân chính, đúng đắn, họ cũng không rõ nữa. Sự khao khát học hỏi giáo lý và nương tựa vào một vị lãnh đạo tinh thần đã khiến các phụ nữ Tây Phương dễ bị mắc lừa và trở thành con mồi ngon cho sự lợi dụng thỏa mãn tình dục.

– “Nhiều người Tây Phương đã hiểu sai về thiên chức vị đạo sư. Họ cho rằng vị đạo sư là người dìu dắt họ từng bước một trên con đường tìm cầu chân lý, như đứa con cần sự dắt dìu của người mẹ. Nhưng thực ra không phải vậy. Vị đạo sư là người có bổn phận giúp đỡ mọi người nhận thức rõ ràng hơn, trưởng thành hơn, tỉnh thức hơn. Chức năng của vị đạo sư là giới thiệu cho chúng ta con đường trở về với bản nguyên và sợi dây liên kết giữa thầy trò là một sự cam kết tôn trọng lẫn nhau. Về phần người học trò thì phải có trí tuệ suy xét những gì thầy mình làm có đúng chánh pháp hay không, nghe lời Thầy dạy, và thực hành theo những gì Thầy hướng dẫn. Về phần người thầy cũng phải dạy dỗ hướng dẫn học trò mình đạt được chân lý, dù phải trải qua vô lượng kiếp.

Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng có lời khuyên chân thực rằng “Quý vị phải tìm hiểu dò xét về người thầy mình ít nhất là 10 năm. Quý vị phải nghe, phải quan sát, phải nhìn cho thật kỹ cho đến khi quý vị nhận xét ông thầy đó chắc chắn là trong sạch. Ngay trong lúc tìm hiểu đó, quý vị cư xử với vị thầy đó như một người bình thường và nhận những lời dạy của ông ta như là “một thông báo, một lời giới thiệu.” Một người thầy chân chính, đúng đắn không bao giờ đi tìm cầu học trò hay tín đồ gì cả. Chính đức hạnh và đời sống thanh cao của vị thầy sẽ hướng dẫn các tín đồ tìm đến vị thầy xin nương tựa.”

Đối với tất cả những phán xét, phê bình hay chê trách những vị đạo sư, Tenzin vẫn luôn luôn kính trọng Sư Phụ của cô là ngài Khamtrul Rinpoche :

– “Tôi có thể nói Khamtrul Rinpoche là người tôi tuyệt đối tin tưởng. Tôi không bao giờ nghi ngờ Thầy tôi dù là một phút giây. Ngài đã chỉ dạy tôi thật chính xác, tuyệt hảo. Tôi không hề thấy có điều gì tôi cần thắc mắc. Sư Phụ tôi lúc nào cũng sắc sảo, trí tuệ, và vô ngã.”

Đối với nhiều tín đồ Phật giáo Âu Mỹ, hình tượng “Đạo Sư” đã bị tổn thương nặng nề. Đó không phải chỉ vì những vụ bê bối tai tiếng mà chính vì thời điểm của họ đã tận. Theo sự nhận xét của người Âu Mỹ cuối thế kỷ 20 này, hình tượng vị đạo sư chẳng qua chỉ là sản phẩm của một hệ thống giai cấp trưởng lão trên cơ bản cấu trúc và tôn ti cấp bực; và với sự phát triển của giới lãnh đạo nữ, ngày tàn của hệ thống quyền hành trưởng lão đó sắp sửa kết thúc.

Andrew Harvey, cựu học giả đại học Oxford và cũng là một thi sĩ, đã mất nhiều năm đi tìm chân lý với sự hướng dẫn của nhiều đạo sư khác tôn giáo trên khắp thế giới, kể cả vài vị Lạt Ma nổi tiếng đương thời, Linh Mục Bede Griffiths (người xây một đền thờ ở Ấn), và một nữ đạo sư Ấn Độ Mẹ Meera, đã nói lên kinh nghiệm học hỏi của ông ta trong một cuộc phỏng vấn ở đài phát thanh :”Tôi rất sung sương được học hỏi với các vị thầy của tôi, nhưng đồng thời tôi cũng nhận thức rằng, nếu sự liên hệ giữa thầy trò xảy ra trong tình trạng lệch lạc, kém tinh thần thì chúng ta dễ mất đi niềm tin và phương hướng. Nếu chúng ta không được hướng dẫn đúng đắn thì chúng ta khó có thể tiếp cận đối phó với thế giới bên ngoài được, và sự lệch lạc đó cũng làm băng hoại ông thầy đi. Chúng ta đang đi tìm một kiến thức mới, một mô hình mới của sự liên kết giữa thầy trò phải như thế nào.

Tôi nghĩ rằng trong vòng 10 hay 15 năm tới, sẽ có nhiều thay đổi. Chúng ta sẽ không còn giữ đường lối xưa cũ của các vị thầy phương Đông nữa. Nó không còn phù hợp với thực tế hiện trạng bây giờ. Chúng ta cần một sức một sức mạnh tinh thần thực sự giúp chúng ta phấn chấn lên và đẩy chúng ta đi tới phía trước.

Những gì mà giới trí thức tân tiến ngày nay cần để thay thế cương vị “người thầy” là người bạn tâm linh. Hình tượng người “bạn tâm linh” đó không cần phải rêu rao là đã chứng đắc, cũng chẳng cần phải được tôn sùng tuyệt đối và phải được vâng lời dạy bảo hoàn toàn; mà người bạn đó chỉ cần đồng hành, cùng đi chung một con đường với người đang đi tìm chân lý. Đó là một giải pháp dân chủ phù hợp với văn hóa phương Tây. Tenzin Palmo đồng ý với quan điểm đó. Cô đã gặt hái được nhiều kinh nghiệm vô giá qua sự liên hệ giữa cô và vị đạo sư của cô; nhưng đã nói, Tenzin quả là một người may mắn và phi thường nhất trên đoạn đường tìm chân lý. Tenzin nói :

– “Thẳng thắn mà nói, tôi nghĩ người Tây Phưong nên thực tập giáo lý Phật giáo và nương tựa nơi những vị thầy đạo hạnh hơn là những vị đạo sư. Hai danh từ “Thầy” và “Đạo Sư” không cùng một ý nghĩa như nhau đâu. Một vị Đạo sư có sợi dây liên hệ rất mật thiết và đặc biệt quan trọng với người đệ tử, và chúng ta chỉ có một đạo sư mà thôi – nhưng chúng ta có thể có nhiều thầy; như ngài Atisha (vị sáng lập Phật giáo Tây Tạng vào thế kỷ thứ 10), ngài có tới 50 vị thầy. Hầu hết các vị thầy đều có đầy đủ khả năng để hướng dẫn chúng ta và ngay tự chúng ta, chúng ta cũng có thể tự mình đi tới đích một cách hoàn hảo. Chúng ta có trí tuệ, có sức mạnh tâm linh. Nếu chúng ta gặp một thiện hữu trí thức giúp đỡ chúng ta, quá tốt; nếu không, chúng ta vẫn có thể tự chứng qua sự thực hành giáo pháp. Điều quan trọng hơn hết là chúng ta phải hiểu biết rõ ràng sâu sắc về Phật, Pháp, và Tăng.”

Vickie Mackenzie

Việt Dịch: Thích Nữ Minh Tâm

Nguồn: quangduc.com