Cuộc đời của Milarepa – Phần 2 – Chương 7 – Thiền định

Retchung thưa hỏi, “Bạch Đạo sư, ngài đã thực hành khổ hạnh và thiền định ở những nơi nào?”

Milarepa tiếp tục :

Sáng hôm sau, người con của thầy giáo nói với thầy, “Hãy lấy những lương thực này, và xin nhớ đến chúng tôi trong thiền định của ngài.”

Anh ta đưa thầy một bao bột mì và một số thịt khô loại tốt. Thầy rút vào một hang trên ngọn đồi sau nhà để thiền định. Thầy dùng tiết kiệm số lương thực đó, thân thể thầy bắt đầu yếu đi. Tuy nhiên, thầy có thể thiền định mãnh liệt trong vài tháng.

Khi thực phẩm hết và thầy không còn lại gì để ăn, thầy cảm thấy không nên kéo dài thêm nữa. Thầy nghĩ, “Ta sẽ đi khất thực thịt từ những người chăn cừu trong vùng đất cao và lúa mì từ những người làm nông trong thung lũng. Nếu cẩn thận dùng thực phẩm, ta sẽ có thể tiếp tục thiền định.” Và thầy đi đến những người chăn cừu để khất thực.

Vào một cửa lều, thầy kêu to, “Xin hãy cho một ẩn sĩ chút ít lương thực.”

Tình cờ, đấy là căn lều của thím thầy. Vừa nhận ra thầy, thím giận điên lên và thả chó ra cắn thầy. Thầy lấy đá và gậy để xua chúng đi. Rồi thím nắm lấy một cây cọc lều xông ra la lớn, “Thằng con trời đánh của một ông cha tốt ! Sự ô nhục của gia đình nhà ngươi ! Con quỷ phá hoại của thôn làng nhà ngươi ! Tại sao mày đến đây ? Một thằng con như mày, lại sanh từ một ông cha tốt như thế !”

Vừa nói, bà vừa quất thầy túi bụi. Thầy chạy lui, nhưng vì đói và yếu, thầy vấp một hòn đá và ngã xuống một cái ao. Dầu thầy gần chết, thím vẫn tiếp tục chửi rủa thầy. Thầy lấy hết sức để chỗi dậy, và tựa người vào cây gậy, thầy hát cho bà nghe bài ca này :

“Con lễ lạy dưới chân ngài Marpa Bi Mẫn.

Trong vùng đất Tsayi Koron(1) buồn thảm,

Chúng tôi, mẹ và hai con, bị bà con ghét bỏ.

Chúng tôi tan tác như những hạt đậu bị cây gậy đánh xuống.

Chú và thím ơi, chính các người đã làm chúng tôi tan tác.

Hãy nhớ cho điều ấy, hỡi các người !

Khi tôi lang thang cùng trời cuối đất để ăn xin,

Mẹ tôi bị giết bởi lưỡi gươm của nghèo đói, đau buồn.

Em tôi lưu lạc ăn xin xa xứ.

Vì tôi không bao giờ ngừng thương tưởng mẹ và em,

Tôi trở về ngục tù nơi chôn nhau cắt rốn,

Và thấy người mẹ yêu dấu đã chết

Đứa em bất hạnh lang thang nơi cùng trời cuối đất.

Buồn đau và cay đắng lấp đầy lồng ngực tôi.

Với những khổ đau của mẹ và con,

Hỡi chú thím, chẳng phải các người đã không xếp đặt để dìm chúng tôi vào khổ não ?

Tuy nhiên chính cái khổ không thể chịu đựng này

Đã kêu gọi tôi trở lại cuộc đời cầu đạo.

Khi cắt bỏ tất cả trong ẩn cư trên núi,

Và thiền định về những giáo lý của Marpa Đại Bi,

Thân thể tôi, dù chỉ là một ảo tưởng, đã không còn lương thực.

Lên đường đi khất thực,

Như một côn trùng chết trước tổ hang kiến,

Tôi thấy mình đứng trước của lều của thím tôi.

Bà xua chó dữ để tiếp đón tôi.

Thân thể mỏi mòn tôi rút chạy.

Lời chửi rủa, lời xấu ác của bà

Làm lòng tôi ngập tràn đau đớn.

Võ trang với một cọc lều,

Bà đánh như mưa lên thân tôi, càng thêm đau đớn,

Và suýt lấy đi của tôi mạng đời quý báu.

Dù cho tôi có đủ lý do để nổi giận,

Tôi cũng làm tròn lời dạy của lama.

Hỡi thím, hãy quên sự tức giận của thím đi,

Và cho tôi lương thực cho việc nhập thất của tôi.

Hỡi Marpa cao cả, bậc Từ Bi Thương Xót,

Xin ban phước cho đệ tử ngài, và làm bà dịu giận.”

Thầy hát những lời than du dương ấy khiến thím cũng phải hổ thẹn. Đi với một cô gái nhỏ, cô này bật khóc, thím đi vào lều.

Thím gởi cô gái nhỏ mang ra cho thầy một khoanh bơ và một phần bánh phó mát. Thầy đi khất thực tiếp ở các lều khác, thầy không biết ai cả, nhưng mọi người nhận ra thầy, nhìn thầy tò mò và cho thầy nhiều đồ bố thí. Mang những vật cúng dường này thầy vội vã bỏ đi.

Thầy biết ông chú thầy sẽ đối xử như thím, và thầy nghĩ, “Ta phải tránh đi về hướng ấy.” Nhưng khi xin thức ăn từ những người nông dân trong thung lũng Tsa, thầy đến cửa một ngôi nhà nơi ông chú sống.

Dù thầy trông giống như một xác chết chưa chôn, ông nhận ra thầy và hét lên, “A mày đúng là người mà ta muốn gặp.”

Và ông ném một hòn đá lớn suýt nữa trúng thầy.

Về phần mình, thầy nhận ra ông chú và tẩu thoát. Ông hết sức ném những hòn đá vào thầy, và thầy vẫn chạy. Rồi ông đi lấy cung tên.

“Thằng quái vật ! Một bất hạnh cho gia đình mày ! Mày đã phá hủy làng xóm tổ tiên của mày !” Và chú gọi những người làng, “Bà con ơi, ra mà bắt kẻ thù của chúng ta đây. Nhanh lên !”

Chú bắn tên vào thầy. Vài thanh niên trong làng cũng bắt đầu ném đá. Thầy đành phải dọa họ bằng huyền thuật vì e rằng họ sẽ giết thầy bởi vì những phép phù thủy của thầy hồi xưa. Thầy kêu lớn, “Ôi chư vị Tổ sư dòng Kagyuš ! Hỡi chư thần bảo vệ, những vị uống máu ! Ẩn sĩ thực hành Pháp đang bị những kẻ thù bao vây. Xin hãy tới cứu đệ tử.” Và với những dân làng, thầy nói, “Tôi có thể chết, nhưng những vị thần bảo vệ không chết đâu.”

Kinh hãi, những người làng giữ chú thầy lại và thôi quấy rối thầy. Những người ném đá xin thầy tha thứ. Mỗi người khác đem cho đồ cúng dường. Chỉ có chú thầy không chịu cho gì cả. Nhưng nếu ở lại trong vùng có thể làm cho họ tức giận, thầy quyết định ra đi.

Vào tối đó thầy có một giấc mộng báo trước một biến cố vui vẻ nếu thầy ở lại vài ngày. Bởi thế thầy nán lại và Zessay biết được tin thầy về làng. Cô đến gặp thầy, mang theo thực phẩm và bia. Cô ôm chầm thầy và bật khóc nức nở. Cô nói với thầy mẹ thầy đã chết như thế nào và em thầy đã trở nên một kẻ lang thang. Đau buồn lại tràn đến, thầy cũng rơi nước mắt.

Thầy nói với Zessay, “Tại sao sau thời gian lâu như vậy, cô không lấy chồng ?”

Cô trả lời, “Họ sợ vị thần bảo vệ của anh, và không ai dám đi hỏi tôi. Mà nếu có ai đề nghị, tôi cũng từ chối. Việc anh đi tu là đáng ngạc nhiên. Anh sẽ làm gì đối với nhà cửa và ruộng đất ?”

Thầy hiểu ý cô và thầm nghĩ, “Mình không cưới nàng chỉ là do ân sủng của ngài Marpa Dịch Giả. Từ quan điểm đời thường, ta phải nói với Zessay rằng không hy vọng gì có đám cưới giữa ta và nàng, còn từ quan điểm tôn giáo ta sẽ nói những lời cầu nguyện nhiệt thành nhất cho nàng.”

Và thầy nói với cô, “Nếu tôi gặp lại em gái tôi, tôi sẽ cho nó ngôi nhà và ruộng đất của tôi. Trong thời gian đó, cô cứ sử dụng. Nếu có tin chắc chắn em tôi đã chết, thì cô giữ luôn nhà và đất.”

“Nhưng anh không muốn chúng cho chính anh ư ?”

“Theo sự thực hành khổ hạnh của tôi, tôi sẽ kiếm thức ăn như loài chim và chuột, thế nên tôi đâu cần gì đất đai. Chỗ ở của tôi sẽ là một hang động trống không, bởi thế tôi đâu cần gì nhà cửa. Dù cho ai đó là Chúa Tể của Vũ Trụ, vào lúc chết người ấy cũng bỏ hết tất cả. Nếu người ta từ bỏ mọi thứ ngay bây giờ, người ta sẽ hạnh phúc bây giờ và sau nữa. Đó là tại sao, hoàn toàn ngược với những người khác, bây giờ tôi buông bỏ mọi thứ và mọi người. Cô chớ hy vọng ở tôi như một người theo nghĩa thế gian.”

Cô trả lời, “Vậy thì sự thực hành của anh ngược với những người khác có tôn giáo ư ?”

“Trước hết, những người chỉ nghĩ đến những mục đích thế gian thì bằng lòng với việc nghiên cứu một số sách tôn giáo. Họ vui thích với thành công của họ và với thất bại của những người khác. Nhân danh tôn giáo, họ thu thập giàu có và danh tiếng càng nhiều càng tốt. Họ mang những tên thánh và khoác những chiếc áo tu. Tôi xa lánh họ và sẽ luôn luôn làm như vậy.

“Nhưng những người sùng đạo khác, nếu tâm thức họ và sự thực hành không bị hư hỏng, thì đồng lòng với tôi, bất kể họ mặc áo gì, và tôi không thể quay lưng với họ. Tôi chỉ tránh những người không theo tinh túy của Pháp.”

“Em chưa bao giờ thấy một người sùng đạo như anh. Trông anh còn tệ hơn một người ăn xin. Đây là loại Đại thừa nào thế ?”

“Đây là cái tốt hơn hết tất cả. Nó ném Tám Phản Ứng Thế Gian vào trong gió để thực hiện Giác Ngộ trong đời này. Bề ngoài của tôi phù hợp với truyền thống ấy.”

Zessay trả lời, “Như anh nói, đường lối của anh và của họ hoàn toàn nghịch nhau ; một trong hai cái phải là sai lầm. Nếu cả hai đều đúng, em sẽ thích chọn lối họ hơn là lối của anh.”

“Tôi không thích cái mà những người thế gian thích. Ngay cả những nhà sư áo vàng họ theo một con đường như tôi, cũng hình như không hoàn toàn thoát khỏi Tám Phản Ứng Thế Gian. Mà dầu họ có thoát khỏi, thì vẫn có một sự khác biệt vô cùng trong thời gian phải dùng để đạt đến Giác Ngộ. Cô không hiểu điều này đâu. Nếu có thể, cô hãy thực hành Pháp. Nếu không thể, bấy giờ hãy về sống như cô đang sống và sở hữu nhà đất của tôi.”

Zessay trả lời, “Em không muốn nhà cửa hay đất đai của anh. Hãy cho cô em gái của anh. Về phần em, em sẽ thực hành Pháp, nhưng em không thể theo một con đường như của anh.” Nói xong cô ra đi.

Thím thầy nghe thầy không dùng gì nữa ruộng đất và nhà cửa của thầy. Vài ngày trôi qua và bà nghĩ, “Bởi vì nó nói rằng nó sẽ theo những chỉ dạy của Đạo sư của nó, ta thử đến xem ta có thể có miếng đất ấy không.”

Bà đến tìm thầy, mang theo bột mì, bia và thịt khô. “Hôm trước thím đã hành động xuẩn ngốc”, thím nói. “Nhưng bởi vì anh là một người thánh thiện, anh sẽ tha thứ cho thím. Bây giờ thím muốn trồng trọt trên đất của anh và sẽ cung cấp lương thực cho anh.”

Thầy trả lời, “Tốt lắm, thưa thím, hãy đem cho tôi một bao bột mì mỗi tháng, và giữ phần còn lại cho thím.”

“Thím sẽ làm như vậy.”

Trong vòng hai tháng, bà đem bột mì cho thầy như đã hứa. Sau đó, bà lại đến và nói, “Người ta nói rằng nếu thím canh tác miếng ruộng, những thần bảo vệ của cháu sẽ ném chú thuật lên đầu bọn thím. Nhưng có phải cháu không để điều đó xảy ra, phải thế không ?”

Thầy trả lời, “Sao họ lại nói thế, bởi vì chính có lợi cho cả hai chúng ta mà thím canh tác miếng ruộng và đem cho tôi thực phẩm chứ.”

“Tốt lắm, cháu à, nếu không gây phiền hà cho cháu, thì thím thấy dễ chịu hơn khi cháu có một lời thề.” Thầy không biết bà sẽ cảm thấy mọi sự này trong tương lai như thế nào, nhưng thầy thề bởi vì làm cho những người khác hạnh phúc chính là Pháp. Rồi bà vui sướng trở về nhà.

Thầy đã cố gắng rất nhiều để thiền định, nhưng thầy hoàn toàn không thể thậm chí đạt được kinh nghiệm phúc lạc của nội nhiệt và khi thầy tự hỏi phải làm sao, thì thầy có một giấc mộng như vầy : Thầy đang cày một luống trên miếng ruộng của thầy. Đất rất cứng và thầy tự hỏi có nên bỏ nó không. Bấy giờ Marpa Tôn Quý xuất hiện trên bầu trời và nói với thầy, “Con ta, hãy mạnh thêm ý chí, có can đảm và làm việc đi ; con sẽ cày được đất cứng và khô.”

Nói vậy rồi chính Marpa hướng dẫn thầy và thầy cày miếng ruộng của thầy. Tức thời một vụ mùa trúng lớn mọc lên. Thầy thức dậy thật vui, và thầy nghĩ, “Những giấc mộng không gì hơn là những phóng chiếu của những tư tưởng ẩn kín, ngay cả những người ngu cũng không tin chúng là thật. Ta mà chấp vào chúng thì ta còn ngu đần hơn họ.” Dầu như vậy, thầy xem giấc mộng này có nghĩa là nếu thầy kiên trì cố gắng thiền định, thầy sẽ đạt một phẩm tính mới trong kinh nghiệm nội tâm, và thầy hát lên bài ca này để soi sáng ý nghĩa của giấc mộng ấy :

“Con xin Thầy, Đạo sư Bi Mẫn,

Ban phước cho kẻ ăn mày này để nó có thể sống trong cô tịch.

Con canh tác miếng đất của tâm không phân biệt nền tảng

Với nước và phân của niềm tin,

Và gieo xuống hạt giống của tâm thanh tịnh.

Sấm sét mãnh liệt của những cầu nguyện của con vang dội,

Và cơn mưa của những ban phước của Thầy rơi xuống không dùng công sức.

Trên con trâu của một tâm thức thoát khỏi nghi ngờ

Con tra vào ách và lưỡi cày của phương tiện thiện xảo và trí huệ.

Con nắm vững chắc dây cương không phóng dật.

Quất đen đét ngọn roi nỗ lực, con phá vỡ đất cứng năm độc vô minh.

Con ném xa những hòn đá của một tâm ô nhiễm,

Và nhổ sạch tất cả sự tự dối lừa.

Rồi với lưỡi liềm của Nhân và Quả

Gặt hái thành quả của sự thực hành

Là Phật Tánh của hằng sa giải thoát.

Con chất vào kho quả của những giáo huấn tuyệt luân,

Những chân lý vượt ngoài tâm, ý, ý thức,

Hạt tuyệt hảo này, rang và xay bởi những dakini,

Là thực phẩm cho người ẩn sĩ trên con đường Chân Tánh.

Đây là ý nghĩa giấc mộng của con.

Chứng ngộ không khởi từ những lời nói.

Thấu hiểu không đến từ gợi ý diễn suy.

Con nài nỉ tất cả những ai làm việc vì Giác Ngộ

Hãy thiền định với tất cả kiên trì và nỗ lực.

Sự chịu đựng và cố gắng sẽ đánh bại những khó khăn lớn nhất.

Nguyện cho những ai tìm cầu Phật tánh được không chướng ngại.”

Hát xong những lời này, thầy quyết định ra đi và thiền định ở Núi Răng Ngựa Trắng.

Cùng ngày hôm đó, thím thầy mang đến cho thầy ba bao bột mì, một áo khoác bằng da đã sờn, một bị quần áo vải tốt, một số thịt khô và một số bơ và mỡ. Và bà nói : “Đây là cái giá cho miếng ruộng của cháu. Hãy lấy nó và đi đến một nơi nào thím không bao giờ thấy hay nghe nói về cháu nữa. Người ta bắt đầu nói, ‘Sau mọi thảm cảnh mà Tin Lành đã gây ra, giờ đây bà lại giao thiệp với nó. Còn hơn là để cho nó giết hết bọn còn lại chúng tôi với huyền thuật của nó, chúng tôi sẽ thanh toán cả hai người cho rồi.’ Thế nên tốt hơn hết là cháu đi đến một ngôi làng khác. Dù sao, nếu cháu ở lại, họ không có lý do thực sự nào để giết thím, nhưng về phần cháu, họ sẽ không ngần ngại đâu.”

Thầy biết rất rõ dân làng không nói như vậy. Thầy thầm nghĩ, “Cái gì xảy ra nếu ta chẳng hành động thuận theo Pháp ? Trên nguyên tắc ta chưa thề không tung ra chú thuật với người nào lấy mất miếng ruộng của ta. Hơn nữa, đặc biệt với một thiền giả, một lời thề chỉ là một giấc mộng không thực tại. Không có gì ngăn ta gởi mưa đá đến ngay sau phút thím quay lưng đi. Nhưng ta không làm những điều như vậy. Vì người ta có thể thực hành nhẫn nhục sao được nếu không có ai để làm mình tức giận ? Nếu đêm nay ta chết, miếng ruộng và mọi thứ khác của ta có để làm gì ?

“Có nói rằng nhẫn nhục là phương tiện tốt nhất để đạt được Bồ đề. Bà thím của ta là chỗ nương dựa cho thiền định của ta. Chính là phải cám ơn chú thím vì nhờ hai người ta mới đi vào con đường giải thoát. Như một chứng cứ cho lòng biết ơn của ta, ta sẽ cầu nguyện không ngừng cho sự Giác Ngộ của họ. Trong đời này, ta không chỉ cho họ miếng đất mà cả nhà của ta nữa.”

Và giải thích ý nghĩ của thầy cho thím, thầy nói với bà, “Vì tôi không có phương tiện gì khác đạt đến Giác Ngộ trong đời này trừ phi tôi theo lời chỉ dạy của lama của tôi, xin hãy lấy không chỉ miếng đất mà cả nhà cửa của tôi nữa.” Và thầy hát lên bài ca này :

“Lama Tôn Quý, trong tay Người là những niềm vui và nỗi buồn

Của kẻ ăn mày này mà Người đã hướng dẫn vào núi non cô tịch.

Đối với người bị hành hạ bởi nghiệp của sanh tử phổ khắp,

Nhiễm ô làm nổ tung động mạch sống còn của giải thoát.

Cái chúng sanh trau dồi là ác hạnh.

Nếu cứ buông lung, họ sẽ chịu những thống khổ của ba cõi thấp.

Tình họ hàng là thành thị của quỷ ma

Tôi xây dựng nó, tôi sẽ bị hút vào lò nấu chảy.

Nếu ai tích tập lương thực và giàu sang,

Đó là làm để cho những người khác sở hữu.

Mọi thứ người ta tích lũy

Đều trở thành tài sản của những kẻ thù của mình.

Trà và bia nếu khao khát thì biến thành thuốc độc.

Nếu uống vào, tôi sẽ nổ tung động mạch sống còn của giải thoát.

Cái giá thím tôi trả cho miếng ruộng của tôi là sự keo kiệt của bà

Lấy phần nào trong đó sẽ gây cho tôi tái sanh vào ngạ quỷ.

Những lời lẽ của thím tôi là những lời tức giận.

Nếu tôi nói cùng thứ ngôn ngữ, chúng ta sẽ hủy diệt lẫn nhau.

Thím ơi, hãy lấy nhà cửa và ruộng vườn của tôi.

Hãy lấy chúng và cầu mong thím hạnh phúc.

Qua sự hiến thân của tôi cho Pháp, thím sẽ thoát khỏi phê phán trách cứ,

Và tôi sẽ đi con đường của tôi đến ngôi chùa của Thật Tánh tối hậu.

Chính qua lòng Bi mà tôi hàng phục quỷ ma.

Thị phi vất tung trong gió, tôi xoay mình hướng về Bản Lai Diện Mục tối cao.

Hỡi Lama Tử Tế, bất động muôn đời trong bản tánh,

Xin ban phước cho kẻ ăn mày này có thể thành tựu đời nó trong cô tịch núi non.”

Nghe bài ca này, thím thầy nói, “Cháu ơi, cháu quả là một người cầu đạo chân thật và thành tâm. Thật là kỳ diệu !” Và bà ra đi, lòng đầy vui vẻ.

Bị khuấy nhiễu bởi biến cố này, thầy khổ tâm dữ dội. Nhưng đồng thời, thầy hạnh phúc và nhẹ nhõm đã thu xếp xong nhà cửa ruộng vườn. Một lần nữa thầy nghĩ đến chuyện đi để thiền định theo những mệnh lệnh của lòng thầy ở hang Núi Răng Ngựa Trắng. Bởi vì thầy đã củng cố sự thực hành tham thiền của thầy ở đây trong hang động này khi thím thầy đến viếng thăm thầy, thầy gọi nó là Hang của Nền Tảng.

Sáng hôm sau, lấy phần trả cho miếng ruộng và vài đồ nhỏ nhặt khác còn lại, thầy đến Núi Răng Ngựa Trắng không để cho ai biết, và ở đó trong một cái hang dễ chịu. Thầy đặt một tấm đệm ngồi cứng để thiền định và dọn dẹp chỗ ở. Rồi thầy phát một lời nguyện không đi xuống chỗ có người ở như sau :

“Bao giờ tôi chưa đạt đến trạng thái Sáng Tỏ tâm linh,

Tôi sẽ không đi xuống để khất thực, dù tôi có chết vì đói trên ngọn núi hoang vu này.

Tôi sẽ không đi xuống tìm quần áo dù tôi có chết vì lạnh.

Tôi sẽ không buông lung vào lạc thú và phóng dật thế gian, dù tôi có chết vì buồn khổ.

Tôi sẽ không đi xuống kiếm thuốc men, dù tôi có chết vì bệnh.

Không cho phép thân, ngữ, tâm hở sót, tôi làm việc để thành Phật.

Ôi lama và yidam, xin ban phước cho con, để con hoàn thành mọi lời nguyện này.

Nguyện chư dakini và những thần hộ pháp nâng đỡ tôi với thần lực hoạt động của họ.

Chẳng thà chết tốt hơn là sống như một người phá vỡ những lời nguyện khi không nỗ lực với Tự Tánh mình.

Ôi biểu những thần hộ pháp, xin hãy hủy diệt cuộc đời tôi tức thời với bất kỳ cái nào vi phạm.

Ôi lama và yidam, xin ban phước cho con để con gặp đạo trong đời tới và tái sanh trong một thân người có khả năng vươn tới Phật tánh.”

Nguyện xong, thầy hát Bài Ca Xin Hứa và Cầu Nguyện này :

“Ôi, Con của đức Naropa, xin ban phước cho kẻ ăn mày này.

Có thể thành tựu trong cô đơn con đường giải thoát.

Xin che chở con khỏi những lực lượng làm phóng dật của Ma

Và làm tăng thêm chiều sâu của thiền định.

Không bám luyến vào mặt hồ an định nội tâm,

Nguyện đóa hoa quán chiếu siêu việt bừng nở trong tôi.

Không khởi những tư tưởng phân biệt thoáng qua,

Nguyện những lá của trạng thái vô niệm lan rộng.

Không để cho nghi ngờ trú chân trong thất,

Nguyện quả của sự Thức Tỉnh chín vàng.

Không để cho quân Ma dám tạo nên những chướng ngại

Nguyện sự xác tín tuyệt đối như mặt trời mọc lên trong tâm thức tôi.

Không ngần ngại trên con đường của phương tiện thiện xảo

Nguyện con trai theo được bước chân Cha.

Ôi lama Bi Mẫn, bất động muôn đời trong bản tánh,

Xin ban phước cho kẻ ăn mày để nó đạt đến Toàn Thiện trong cô tịch núi non.”

Cầu nguyện như thế xong, thầy tự nuôi sống mình chỉ bằng một muỗng xúp nhỏ bột mì nướng sơ, và bắt đầu thiền định.

Dù cho một tỉnh giác xác thực về Đại Ấn (Mahamudra) khởi lên trong tâm thầy, thầy không thể kiểm soát hơi thở bởi vì thân thể quá yếu ; không có lửa Tummo sưởi ấm thầy và thầy thấy lạnh ghê gớm. Rồi thầy kêu cầu lama với tập trung mạnh mẽ, và một đêm thầy tri giác, trong một trạng thái sáng tỏ bên trong, nhiều phụ nữ làm một buổi lễ cúng, họ bao quanh thầy và nói, “Marpa gởi chúng tôi đến để nói với thầy rằng nếu thầy không cảm thấy Lửa Tummo, thầy nên dùng những phương pháp này về thân, ngữ, tâm cho đến khi sức nóng phúc lạc khởi lên bên trong thầy.”

Họ chỉ bày những tư thế yoga. Thầy tìm kiếm cái lạc của thân qua tư thế ngồi được biết như là sáu lò sưởi nối kết. Thầy tìm kiếm sự kiểm soát năng lực thuộc ngữ qua sức mạnh của nguyên tố sinh khí trong không khí. Thầy tìm kiếm và thiền định về sự hài hòa của tâm thức qua những thần lực sinh khí của con rắn cuộn tròn tự khai phóng, và Lửa Tummo sớm bắt đầu lan tỏa suốt thân thầy.

Một năm trôi qua.

Bấy giờ thầy có một ý muốn ra ngoài và làm mình tươi khỏe trở lại. Thầy chuẩn bị đi. Nhưng thầy chợt nhớ lời nguyện trước kia và tự nhắc nhở mình với bài ca này :

“Ôi Marpa, Biểu Lộ của Kim Cương Trì, bậc Nắm Giữ Chân Lý Tối Hậu,

Xin ban phước cho kẻ ăn mày để nó hoàn thành cuộc ẩn tu trong cô tịch.

Milarepa, ôi con người tự trọng,

Mong bài ca này là sự nhắc nhở và sự giúp đỡ cho ngươi.

Người đã cắt đứt với những bạn ở chung và những cuộc chuyện trò thú vị.

Trống không là những cái nhìn thấy nơi thung lũng ngươi muốn thấy.

Không có gì ở bên ngoài có thể làm nâng cấp lòng ngươi.

Chớ buông lung trong những tư tưởng lang thang, mà hãy để tâm bình an tự là chính nó.

Nếu buông lung, ngươi sẽ chết vì những tư tưởng xấu.

Chớ bị phóng dật, chớ bị phóng dật, mà chú ý chánh niệm.

Nếu ngươi không chú ý, sự sùng mộ hiến mình của ngươi sẽ theo gió bay xa.

Chớ bỏ đi, chớ bỏ đi, mà trụ lại nơi ngươi đang trụ.

Nếu bỏ đi, chân ngươi sẽ vấp nhầm đá.

Chớ tìm kiếm lạc thú, mà hãy điều ngự chính ngươi.

Tìm lạc thú là điều vô ích.

Chớ có ngủ, chớ có ngủ, mà hãy thiền định.

Nếu ngươi ngủ, năm độc làm hư hoại sẽ tràn ngập ngươi.”

Đã tự cảnh tỉnh mình như thế, thầy thiền định không kể ngày hay đêm. Phẩm tính của sự thực hành của thầy tiến triển và ba năm nữa trôi qua.

Mỗi năm thầy dùng một bao thức ăn. Và nếu thầy không có gì khác để duy trì mạng sống, đấy sẽ là sự chấm dứt đời thầy. Khi người đời họ tìm ra một phần mười lượng vàng, họ vui mừng rồi khi mất nó, họ đau khổ. Nhưng điều đó không thể so sánh với việc chết mà không đạt được Giác Ngộ. Vì một cuộc đời dẫn đến Giác Ngộ thì quý hơn một tỷ thế giới chứa đầy vàng. Thầy nghĩ, “Ta sẽ làm gì ? Chẳng thà chết còn tốt hơn phá vỡ lời nguyện. Ta sẽ không xuống làng. Ta sẽ không phá vỡ lời nguyện của ta. Nhưng chính vì mục tiêu cầu đạo, ta phải tìm cho đủ thực phẩm để duy trì cuộc sống.”

Thầy đi ra phía trước cửa hang Đá Trắng nơi có mặt trời ấm áp và nước trong. Ở đấy có nhiều cây tầm ma – một chỗ khoáng đạt có thể nhìn xa xa. Vui mừng, thầy ở lại đó.

Sống bằng cây tầm ma, thầy tiếp tục thiền định. Bởi vì thầy không có áo quần trên thân thể và không có chất bổ dưỡng nào, thân thể thầy phủ đầy lông màu xam xám, ốm như một bộ xương và da thầy chuyển ra màu cây tầm ma. Lúc cùng cực như vậy, thầy lấy cuộn giấy lama đã đưa cho thầy và đặt nó lên trên đầu. Từ lúc đó, dầu thầy không ăn gì, bụng thầy vẫn cảm thấy đầy và có vị thức ăn trong miệng. Thầy đã định mở dấu niêm cuộn giấy để nhìn vào trong đó. Nhưng một điềm triệu báo cho thầy chưa nên mở. Thế nên thầy cứ để vậy.

Khoảng một năm trôi qua. Một vài người thợ săn từ chợ Kirong trong một buổi săn thất bại thình lình đến trước hang của thầy. Vừa thấy thầy, họ kêu lên “Ma !” và bỏ chạy. Thầy gọi lớn cho họ rằng thầy là một con người và là một ẩn sĩ.

“Khó mà tin được, nhưng chúng ta hãy đến xem”, họ nói.

Trở lại, họ đi vào hang và hỏi, “Thực phẩm của ông ở đâu ? Hãy đưa cho chúng tôi một số, sau này chúng tôi sẽ trả lại tử tế. Nếu ông từ chối, chúng tôi sẽ giết ông.”

“Tôi không có gì cả ngoài cây tầm ma”, thầy nói với họ.

“Hãy nhấc tôi lên và nhìn xem. Tôi không có gì để sợ bị cướp mất.”

“Chúng tôi không cướp của ông.”

“Điều gì xảy ra khi chúng ta nhấc bổng một hành giả ẩn sĩ ?”, một người nói.

“Điều ấy có thể ban phước cho chúng ta !”, người khác nói.

Rồi người này đến người khác nhấc bổng thầy lên và thả xuống lại. Thân thể thầy đã quắt queo vì khổ hạnh đầy đau đớn, nhưng thầy vẫn cảm thấy một sự thương xót kinh khủng và không chịu đựng nổi cho họ. Thầy khóc.

Một người trong đám thợ săn đứng yên không làm thầy bị tổn thương, nói với những người khác, “Dừng lại đi ! Người này có vẻ là một hành giả thật sự. Mà dầu ông ta không phải như thế, các anh cũng không thể chứng tỏ nhân tính của mình bằng cách hành hạ một cái bị xương da như vậy. Chúng ta đói thì có phải lỗi của ông ấy đâu. Hãy dừng cái việc các anh đang làm lại đi.” Và anh ta nói với thầy, “Ngài là một thiền giả tuyệt diệu. Bởi vì tôi không hành hạ ngài, xin hãy đặt tôi dưới sự che chở của thiền định của ngài.”

Những người khác nói, “Và chúng tôi, những người nhấc ngài, xin cũng che chở chúng tôi nữa.”

Một người trong bọn nói, “Vâng, nhưng có nhiều loại che chở khác nhau, hãy tin tôi đi.” Anh ta phá lên cười rồi bỏ đi.

Dù thầy không hề nghĩ đến việc dùng pháp thuật, sau đó họ cũng bị trả quả bởi bàn tay những thần bảo vệ của thầy. Quan của vùng trừng phạt họ. Người đầu đảng bị tử hình, và mọi người khác bị móc mắt, chỉ trừ người đã nói, “Chớ có làm hại người ẩn tu !”

Một năm qua đi. Khi mọi áo quần của thầy đã bị rách hết và cái áo choàng bằng da cũ kỹ của thím cho thầy để trả tiền mướn miếng ruộng cũng tả tơi, thầy định may bốn cái bao bột không và những mảnh áo quần cũ để làm thành một cái đệm ngồi thiền. Nhưng thầy tự nhủ, “Nếu ta có chết đêm nay, thì khôn ngoan là thiền định hơn là làm cái trò may vá vô nghĩa này.” Bỏ ý nghĩ may vá, thầy trải vải rách trên đệm thiền và cột tấm áo choàng da để che phần dưới thân. Phần trên thầy phủ bằng mấy cái bao ở nơi nào cần thiết. Khi bộ quần áo này rơi rụng, thầy nghĩ sự từ bỏ của mình đã đi quá xa và mình phải may chúng lại với nhau. Nhưng không có kim lẫn chỉ, thầy thắt nút ba cái bị để che phần trên, phần giữa và phần dưới và cột lại với dây thừng. Ban ngày thầy mặc nó, ban đêm thầy đặt nó lên trên đệm thiền, kéo dài thời gian chừng nào hay chừng đó. Và theo cách ấy thầy trải qua một năm thiền định nữa.

Một hôm có tiếng nói của nhiều người. Vài người thợ săn vác theo nhiều đồ săn được, đến trước cửa hang. Thấy thầy, họ kêu lên, “Một con ma !” và người gần nhất bỏ chạy. Những người ở xa thì nói, “Làm gì có ma ban ngày mà sợ. Xem kỹ lại coi. Nó có còn đó không ?”

Vài người thợ săn già tiến lên và họ cũng sợ. Thầy giải thích cho họ dài dòng thầy không phải là một hồn ma mà là một ẩn sĩ thiền định trong núi, và việc thiếu thực phẩm làm thầy ra như thế này.

“Chúng tôi sẽ thấy điều đó đúng hay không”, họ nói và đi vào hang.

Ở đó không có gì ngoài cây tầm ma. Xúc động sâu xa, họ cho thầy một lượng lớn thịt cùng với những lương thực khác, và nói, “Điều ngài đang làm thật là kỳ diệu. Xin hãy cứu giúp những sinh linh chúng tôi đã giết, cho chúng sanh vào những cõi cao. Về phần chúng tôi, xin rửa sạch tội lỗi của chúng tôi.”

Nói xong, họ lễ bái và bỏ đi.

“May mắn thay”, thầy tự nói với mình một cách vui vẻ. “Giờ đây ta có thể ăn như một con người.”

Sau khi thầy đã ăn thịt nấu chín, thân thể thầy bắt đầu cảm thấy phúc lạc thanh tĩnh. Sức khỏe thầy tiến triển, cảm nhận thầy sắc sảo, và sự thực hành mạnh mẽ thêm. Thầy kinh nghiệm một trạng thái lạc phúc về tánh Không chưa từng có trước đó. Thầy thấy rằng một ít đồ cúng dường nhận được ở chốn ẩn tu núi non còn lợi lạc cho thầy gấp trăm lần những cúng dường trong thành phố hay thôn làng.

Thầy dùng số thịt ấy một cách tiết kiệm, nhưng phần thầy để dành cuối cùng cũng hư thối bởi những con giòi. Thầy định gắp giòi ra rồi ăn, nhưng thầy nghĩ, “Việc này không phải là số phận của mình mà cũng không phải là quyền của mình. Chẳng tốt tí nào khi cướp của những con giòi thức ăn của chúng. Ta chẳng muốn nó nữa.” Thầy để thịt cho chúng, và trở lại khẩu phần khổ hạnh là tầm ma.

Một đêm một người đến tìm thức ăn. Anh ta lục lọi hết cả hang. Thầy bật cười và nói, “Hãy gắng tìm cho ra vào lúc nửa đêm này một cái gì khi mà giữa ban ngày ban mặt tôi cũng chẳng thể tìm thấy cái gì cả.”

Rồi cũng cười, người ấy ra đi.

Một năm nữa qua đi. Một hôm có vài người thợ săn từ Tsa, không săn được gì cả, đến trước hang của thầy. Thầy mặc ba mảnh bao ở ba chỗ và đang nhập định. Thấy thầy một người thợ săn cầm mũi tên chỉ vào thầy và nói, “Đây là người hay ma ? Là một người bù nhìn chăng ? Xem áo quần, có vẻ là một con ma.”

Thầy mỉm cười và nói, “Tôi đấy, tôi là một người.”

Họ nhận ra thầy do lỗ hở nơi hàm răng thầy.

“Ông là Tin Lành phải không ?”

“Tôi chính là ông ấy.”

“Lúc này hãy cho chúng tôi ăn đã. Chúng tôi sẽ trả lại cho ông sau này. Đã nhiều năm qua từ khi ông về làng. Ông đã ở đây suốt thời gian đó ?”

“Tôi ở đây từ đó đến giờ. Nhưng tôi không có gì tốt để cho các bạn ăn.”

“Hãy cho chúng tôi cái gì ông đang ăn. Như vậy là đủ cho chúng tôi rồi.”

“Được lắm, hãy chụm củi và nấu một ít tầm ma.”

Khi đun lên, họ hỏi thịt để bỏ vào nồi tầm ma.

Thầy trả lời, “Nếu tôi có thịt, thức ăn của tôi sẽ bổ dưỡng rồi. Tôi không có gì nhiều năm nay rồi. Thôi hãy cho thêm tầm ma vào.”

“Thế thì xương vậy.”

“Nếu tôi có xương, thức ăn của tôi đâu có vô vị như vậy. Tôi đã không có chúng từ nhiều năm nay. Thôi cứ dùng thêm tầm ma đi.”

“Nhưng chúng tôi không thể không có muối.”

“Hãy dùng tầm ma thay muối.”

“Chắc vì cách ăn uống và áo quần như vậy làm cho ông không giống bình thường. Ông không phải là một con người. Thậm chí một người đầy tớ cũng ăn đầy đủ mặc ấm áp kia mà. Trên đời này không có ai khốn khổ đáng thương bằng ông.”

“Xin lỗi, chớ nói như vậy. Tôi đã sinh làm người may mắn nhất. Tôi đã gặp Lama Marpa vùng Vách Đá Phía Nam. Từ ngài tôi đã có được những giáo huấn cho phép tôi đạt đến Phật tánh trong đời này và trong thân này. Bằng cách từ bỏ thế gian và thiền định trong núi non cô tịch này, tôi đang cố gắng đạt một mục tiêu vĩnh cửu. Tôi đã hy sinh thức ăn, áo mặc và địa vị, nhờ đó mà hủy diệt những kẻ thù là tham mê và thành kiến, ngay trong đời này. Không có ai trong đời can đảm hơn, nguyện vọng cao hơn tôi. Dù các bạn có sanh ra trong một xứ sở mà Phật pháp đã truyền bá, thế mà thậm chí các bạn không có một thôi thúc nào nghe Pháp, một ý định nào đi vào thiền định. Không có lối sống nào nguy hiểm hơn cứ chất chồng lỗi lầm từng chút một, từng nắm tay một – nó đào thêm chiều sâu và kéo dài thêm thời gian của địa ngục. Bình an từ giờ cho đến mãi mãi, tôi sẽ có an lạc tối thượng, và từ giờ trở đi tôi bảo đảm ở trong hạnh phúc. Bởi thế hãy nghe Bài Ca Năm Hạnh Phúc :

“Con kính lạy dưới chân Marpa Bi Mẫn

Xin ban phước cho sự từ bỏ thế gian của con.

Núi Răng Ngựa Trắng là thành trì của Trung Đạo.

Trên chót đỉnh của Thành Trì Trung Đạo.

Tôi, ẩn sĩ áo vải của Tây Tạng,

Đã từ bỏ thực phẩm và y phục trong cuộc đời này

Để trở thành một vị Phật toàn hảo.

Tôi hạnh phúc với đệm thiền cứng ngắt dưới thân,

Tôi hạnh phúc với áo vải che người,

Tôi hạnh phúc với sợi dây thiền định cột đầu gối(2)

Tôi hạnh phúc với thân thể bóng ma này, không no không đói.

Tôi hạnh phúc với tâm thức này đã nhìn thấy Tánh.

Tôi hạnh phúc với tất cả mọi sự, các bạn ơi.

Nếu các bạn thấy tôi có vẻ hạnh phúc, hãy làm như tôi đã làm.

Nếu các bạn không có may mắn tuyệt vời làm người tu,

Xin hãy chiêm ngưỡng hạnh phúc chân thật miên trường

Của tất cả chúng sanh, của các bạn và của tôi.

Chớ lầm lẫn thương hại cho tôi,

Người hành giả của con đường vô biên An Lạc.

Giờ ánh tà dương đã chìm sau núi,

Hãy trở về nhà cũ của các anh.

Vì cuộc đời ngắn ngủi và cái chết giáng xuống không lời báo trước,

Tôi, kẻ cố gắng tiến về Phật tánh

Không có thì giờ cho những lời vô ích rỗi nhàn.

Xin để tôi với cuộc tham thiền.”

Những người thợ săn trả lời, “Ngài đã nói nhiều điều đẹp đẽ. Chắc chắn ngài có năng khiếu trời cho về ngôn ngữ. Nhưng mặc dù tấm gương của ngài rất thuyết phục, chúng tôi cũng không thể theo.” Và họ ra đi.

Mỗi năm có một lễ hội lớn ở Kya Ngatsa quê thầy để đúc những tượng nhỏ, vào dịp ấy những người thợ săn hát lên Bài Ca Năm Hạnh Phúc. Em Peta của thầy đi xin ăn ở tiệc hội nghe được bài ca này. Cô kêu lên, “Ai nói lên những lời này là một vị Phật !”

Một người thợ săn cười, nói rằng : “Hà hà ! Cô đang tán tụng anh cô đấy.”

Người khác nói thêm, “Dù anh cô có là vị Phật hay là một người bình thường, thì đây là bài ca của ông ấy, và ông ta đang sắp chết đói trên núi.”

Peta trả lời, “Cha mẹ tôi đã mất từ lâu. Bà con tôi lại trở thành kẻ thù. Anh tôi lang thang cùng trời cuối đất. Bản thân tôi là người xin ăn và sẽ không bao giờ gặp anh ấy nữa, thế nên tôi không muốn ca hát tiệc tùng gì.” Nói xong cô khóc.

Zessay đến với cô và nói, “Chớ khóc làm chi. Anh của cô còn sống. Tôi đã gặp anh ấy một thời gian trước đây. Hãy đi đến Núi Răng Ngựa Trắng và xem anh ấy còn ở đó không. Nếu anh còn ở đó, ba chúng ta sẽ lại đoàn tụ.”

Tin như vậy, Peta mang một vại bia đầy, vốn đã xin ở từng nhà một, và với một bình đầy bột và gia vị trộn, cô đến Núi Răng Ngựa Trắng. Cô thấy thầy từ ngưỡng cửa. Thân thầy tiều tụy vì khổ hạnh. Hai mắt thụt vào hố mắt. Tất cả xương thầy lòi trơ ra. Thịt thầy khô teo lại và có màu xanh lá cây. Lông trên ngươi khô và xám, chảy dài xuống trông rất dễ sợ. Tay chân như sắp rụng.

Thấy thế em thầy kinh hãi, nghĩ rằng đấy phải là một con ma, nhưng lời nói cô đã từng nghe, “Anh cô đang chết đói”, làm cô ngần ngại.

“Ông là người hay ma ?” Cô hỏi.

“Tôi là Mila Tin Lành.”

Cô nhận ra giọng nói thầy. Cô tiến đến ôm chầm lấy thầy. “Anh ơi, anh cả ơi !” Cô kêu lên, rồi xúc động quá, cô ngất xỉu.

Thầy nhận ra Peta. Thầy vừa vui vừa buồn. Thầy cố hết sức làm cô tỉnh lại. Sau vài phút cô hồi tỉnh. Cô đặt đầu trên đầu gối thầy và úp mặt trong tay, nức nở nói, “Mẹ chúng ta đã chết vì buồn nhớ con trai bà, và thậm chí không có ai đến để chôn cất bà. Em hết mọi hy vọng và bỏ nhà ra đi. Em đến những tỉnh khác để xin ăn. Em nghĩ rằng anh đã chết, mà nếu còn sống thì chắc cũng đã tìm được ít nhiều hạnh phúc. Nhưng trời ơi, hãy xem anh đây này ! Số phận của anh trai của em như thế này ! Và sự khổ đau của người em gái là thế đó ! Không có ai trên cõi đời này tàn mạt như chúng ta, cả hai anh em mình.”

Cô kêu tên mẹ tên cha và khóc mãi. Mọi cố gắng dỗ dành an ủi cô đều vô hiệu. Rồi thầy, cũng đầy rầu rĩ, hát bài ca này cho em gái thầy :

“Quy mệnh chư vị lama tôn kính.

Xin ban phước cho người ăn mày để nó hoàn thành công việc của nó trong đơn côi.

Ơi em gái, chúng sanh của thế gian,

Mọi niềm vui và nỗi khổ đều phù du hư ảo.

Nhưng bởi vì hiện giờ em sầu khổ theo thói đời,

Anh đoan chắc với em rằng hạnh phúc vĩnh cửu là

hiện hữu.

Thế nên, hãy nghe bài ca của anh cả của em.

Để trả ơn và cảm tạ tất cả chúng sanh,

Họ là cha mẹ của anh vô biên kiếp trước

Anh tu hành trong chốn ẩn cư này.

Nơi đây như một hang thú hoang dã ;

Thấy nó, người khác phải khởi ý bất bình.

Thức ăn của anh như đồ ăn của chó và heo ;

Thấy nó, người khác phải lợm giọng buồn nôn.

Thân thể anh như một bộ xương ;

Thấy nó, một kẻ thù dã man cũng phải khóc.

Thái độ của anh có vẻ là một người điên,

Và em gái của anh đỏ mặt vì hổ thẹn.

Nhưng sự tỉnh giác của anh thực sự là Phật ;

Thấy tâm anh, các bậc Chiến Thắng đều vui.

Dù xương muốn lòi khỏi thịt trên sàn đá cứng lạnh,

Anh kiên trì bất kể ngày đêm.

Thân thể anh, trong ngoài, thành như một cây tầm ma ngoài đó.

Sẽ không bao giờ mất màu xanh lục.

Trong hang động cô liêu, trong núi non hoang vắng,

Người nhập thất biết nhiều về sự cô đơn.

Nhưng lòng thành tín của anh không bao giờ lìa cách

Với Lama Phật của Ba Đời.

Bằng sức mạnh thiền định khởi từ nhiều nỗ lực,

Không nghi ngờ gì anh sẽ hoàn thành tự chứng.

Và khi người ta đạt đến kinh nghiệm sâu xa và Sáng Tỏ,

An lạc tự đến trong cuộc đời này

Và Giác Ngộ trong đời tiếp đó.

Đấy là tại sao anh đòi hỏi Peta,

Thay vì để cho thất vọng và buồn đau phủ ngập,

Em hãy cố gắng kiên trì đắm mình trong Pháp.”

Peta trả lời thầy, “Nếu như thế, những lời của anh thật diệu kỳ và cũng khó tin chúng là sự thật. Nếu chúng là thật, thì những người theo Pháp khác cũng đã thực hành, dầu một phần dầu toàn bộ, em thấy có ai khốn khổ như anh đâu ?”

Nói thế, cô đưa thầy thực phẩm và bia. Thầy ăn và uống, và lúc đó tâm thức thầy trong sáng như pha lê. Tối hôm đó sự thực hành của thầy nâng cấp rất mạnh mẽ.

Ngày hôm sau, sau khi Peta đi, thân thể thầy vì không quen với thức ăn như vậy, vừa cảm thấy thoải mái vừa khó chịu. Và tâm thức thầy bắt đầu lang thang giữa những tư tưởng tốt và xấu, thầy thiền định với tất cả sức mạnh của mình, nhưng không có kết quả gì.

Vài ngày sau, Zessay đến cùng Peta để gặp thầy, mang theo thịt, bơ, bánh bột và một lượng lớn bia. Thầy đang đi tìm nước và gặp họ. Vì thầy đang trần truồng, họ hổ thẹn khi thấy thầy, và họ chảy nước mắt vì sự khốn khổ của thầy. Họ cúng dường thầy thịt, bơ và bột, họ rót bia ra, và khi thầy đang uống thì Peta nói, “Từ bất cứ cái nhìn nào người ta thấy anh cả tôi, người ta cũng không thể gọi đó là một con người. Anh phải đi khất thực và ăn từng chút thực phẩm mà con người ăn. Em sẽ cho anh vải vóc anh cần để may quần áo.”

Zessay nói, “Anh cứ đi khất thực, còn em cũng sẽ đưa cho anh đồ mặc.”

Thầy trả lời họ, “Anh không biết khi nào anh sẽ chết, và anh không có thì giờ cũng như mong muốn đi khất thực để có thực phẩm. Nếu anh có chết vì lạnh, anh cũng không có gì tiếc nuối bởi vì việc đó là để cầu giải thoát. Anh không muốn tìm kiếm thỏa mãn bằng cách thảnh thơi với thực phẩm, thức uống, cười đùa với thân thuộc bạn bè bao quanh, hay mặc quần áo tốt và có thực phẩm dồi dào bằng cái giá sự thiền định của anh. Bởi thế, anh không muốn áo quần hay thực phẩm của hai em. Anh sẽ không nghe theo hai em cũng không đi khất thực.”

Peta trả lời, “Vậy thì, anh ơi, anh nghĩ cái gì sẽ làm thỏa mãn anh ? Chẳng lẽ không có cái gì tốt hơn là sự khốn cùng của anh sao ?”

Thầy trả lời, “Ba cõi thấp thì vô cùng khủng khiếp hơn sự khốn khổ của anh. Vậy mà có rất nhiều chúng sanh đang đi tìm cho mình sự khổ đau đó. Bởi thế, anh quyết tâm đạt đến An Lạc bằng sự hoàn thành mục tiêu của mình.” Và thầy hát lên Bài Ca Hoàn Thành Mục Tiêu Của Tôi này :

“Con kêu cầu lama của con trong biểu lộ Hóa thân của ngài.

Ban phước cho người ăn mày để nó làm trọn việc ẩn tu trong hoang vắng.

Hạnh phúc của tôi người thân không hay biết,

Khốn khổ của tôi kẻ thù đâu có hay,

Nếu tôi chết giữa cô đơn hoang vắng,

Cái chết ấy cũng nằm trong sự hoàn thành mục tiêu của thiền giả tôi thôi.

Tôi già đi bạn bè không ai rõ,

Tôi ốm đau mà em gái nào hay,

Nếu tôi chết giữa cô đơn hoang vắng,

Cái chết ấy cũng nằm trong sự hoàn thành mục tiêu của thiền giả tôi thôi.

Cái chết của tôi không người nào biết,

Thân thối rữa của tôi diều quạ không hay,

Nếu tôi chết giữa cô đơn hoang vắng,

Cái chết ấy cũng nằm trong sự hoàn thành mục tiêu của thiền giả tôi thôi.

Không một người canh thức bên cạnh xác tôi,

Không một tiếng kêu khóc trên cái chết của tôi,

Nếu tôi chết giữa cô đơn hoang vắng,

Cái chết ấy cũng nằm trong sự hoàn thành mục tiêu của thiền giả tôi thôi.

Không ai hỏi từ đâu tôi tới,

Không ai chỉ xứ sở tôi đi,

Nếu tôi chết giữa cô đơn hoang vắng,

Cái chết ấy cũng nằm trong sự hoàn thành mục tiêu của thiền giả tôi thôi.

Trong hang cô tịch này giữa chốn núi non cao,

Nguyện ước muốn này về cái chết của người hành khất,

Được hoàn thành cho lợi lạc của tất cả chúng sanh,

Như thế mục tiêu của tôi đã là trọn vẹn.”

Zessay nói với thầy, “Hành động hiện giờ của anh phù hợp với những lời nói trước kia của anh. Và em thán phục điều đó.”

Peta lại nói, “Dù anh có nói gì đi nữa, em cũng không thể nào chịu nổi sự thiếu thốn hoàn toàn thực phẩm và y phục của anh. Thực phẩm và đồ mặc tốt đâu có làm anh mất thiền định, thế nên em sẽ đem cho anh cái gì để làm một cái áo choàng. Bởi vì anh không muốn đi khất thực, thì theo nguyện vọng của anh, anh có thể chết vì đói không có ai chăm lo trong chốn vắng vẻ. Nhưng nếu anh không chết, em sẽ mang vải đến cho anh.”

CUỘC ĐỜI CỦA MILAREPA

Đại Thiền Gỉa Một Đời Thành Phật của Tây Tạng

Một Bản Dịch Mới Từ Tiếng Tây Tạng Bởi Lobsang P. Lhalungpa

Nguyên tác: The Life of Milarepa – A New Translation from the Tibetan

by Lobsang P. Lhalungpa, Arkana, 1993 – Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2000