Kyabje Kangyur Rinpoche, Longchen Yeshe Dorje, sinh tại miền Đông Tây Tạng năm Thổ Cẩu (1898), và bắt đầu nghiên cứu Phật pháp và thực hành từ thời thơ ấu. Vị Thầy gốc của ngài là Jedrung Rinpoche, Trinle Jampa Jungne, của tu viện Riwoche, lừng danh về cách tiếp cận bất bộ phái, cũng như những buổi lễ và lễ hội hàng năm trong đó ba học viện chính của nó, thuộc các truyền thống Nyingma, Sarma và Taklung Kagyü dra-tsang, thường thực hành cùng nhau. Ngài được coi là một hiện thân của Namkhai Nyingpo, một trong hai mươi lăm đệ tử thân thiết nhất của Guru Padmasambhava (Liên Hoa Sanh), và những giáo lý ngài đã thọ nhận trong đời trước thì bây giờ, khi còn nhỏ tuổi, ngài bắt đầu tái khám phá như những kho tàng (terma).
Nói chung cuộc đời của Kyabje Kanggyur Rinpoche có hai giai đoạn. Nửa đời trước của ngài đáp ứng những ước nguyện của các vị Thầy, do đó ngài đã hiến mình cho việc nghiên cứu và thực hành. Sau khi nhận quán đảnh Văn Thù từ Mipham Rinpoche, ngài có thể nhớ lại bất kỳ bản văn nào sau khi đọc qua một lần. Sự tinh tấn của ngài trong việc nghiên cứu thật vô địch, và ngài đọc thật khuya, nguồn ánh sáng duy nhất của ngài là đầu một cây nhang cháy rực mà thỉnh thoảng ngài thổi vào đó để làm nó sáng hơn. Theo cách này, ngài đã trở thành một học giả phi thường, không chỉ trong toàn bộ phạm vi các chủ đề của mọi trường phái Phật giáo Tây Tạng, mà cả những chủ đề thực tiễn khác nhau và rộng lớn. Đồng thời, ngài đã kết hợp sự tuân thủ hoàn hảo kỷ luật tâm linh của ngài với một số những cuộc nhập thất dài hạn, theo cách đó, bổ túc kinh nghiệm thiền định và thành tựu sâu xa cho sự uyên bác bao la của ngài. Như thế ngài đã có thể cung cấp một mức độ không nhỏ cho mọi phương diện của cuộc sống tại tu viện Riwoche và cuối cùng giữ những chức vụ quan trọng nhất ở đó.
Việc ngài không để ý đến thân thế của bất kỳ loại người nào dẫn ngài tới việc từ bỏ địa vị của mình trong tu viện và đảm đương cuộc đời của một ẩn sĩ lang thang. Ngài đã thăm viếng nhiều nơi khác nhau ở miền Đông Tây Tạng để thọ nhận các giáo lý từ những vị Thầy khác nhau. Mặc dù ngài không bao giờ ngừng nghiên cứu và thực hành, thời kỳ thứ hai này của cuộc đời ngài được ghi dấu bởi lòng nhân đạo phi thường và công việc giúp đỡ người khác của ngài, đặc biệt là bốn hoạt động ngài yêu thích nhất: chăm sóc bệnh nhân kinh niên (ngài là một bác sĩ có tài), trông nom người già yếu, chăm sóc trẻ mồ côi, và bảo tồn, truyền bá giáo lý. Kangyur Rinpoche đã ban những giáo lý và trao truyền chính yếu trong nhiều trường hợp. Ngài được gọi là Kangyur Rinpoche bởi đã ban sự truyền đọc Kangyur (một tuyển tập bao gồm hơn một trăm quyển sách) ít nhất là hai mươi bốn lần. Pema Wangyal Rinpoche, trưởng nam của Kangyur Rinpoche, đã du hành cùng ngài và thọ nhận hầu hết những truyền dạy đó.
Kangyur Rinpoche cũng đã hiến mình cho công việc quan trọng là phục hồi các tu viện và bảo tháp. Đó là một ví dụ về tính khiêm tốn bao la của ngài mà trong những dự án này hay những dự án khác vai trò của ngài không bị hạn chế chút nào để tổ chức, tài trợ và mang lại sự hứng khởi, bởi ngài đã giữ một phần tích cực trong chúng và làm nhiều người kinh ngạc bằng cách phô diễn những năng lực bất ngờ, khi làm công việc của một thợ xây, chẳng hạn thế, như thể ngài đã sử dụng nghề nghiệp đặc biệt đó trong cả đời mình.
Việc bảo tồn Giáo pháp đã trở thành mối quan tâm chính của Kyabje Kangyur Rinpoche trong hai mươi năm cuối đời của ngài, khi ngài đã nhận ra rằng tương lai của Phật giáo ở Tây Tạng đã bị đe dọa. Ngài và gia đình đã mang qua Ấn Độ nhiều pho sách quý hiếm, nếu không thì chúng có thể bị thất lạc, và tại Ấn Độ, ngài đã dùng mọi cơ hội để bảo đảm rằng giáo lý đạo Phật được trao truyền cho thế hệ mai sau, cuối cùng ngài đã thiết lập một tu viện ở Darjeeling, nơi trẻ em Tây Tạng có thể được ban tặng một nền giáo dục truyền thống ngay từ thời thơ ấu.
Kyabje Kangyur Rinpoche thị tịch vào năm 1975 (năm Mão). Mặc dù ngài không có cơ hội viếng thăm Âu châu hay Mỹ châu, nhưng đối với ngài, Phật pháp đã được thiết lập ở Tây phương là điều vô cùng quan trọng. Ngài đã ban tặng rộng rãi thời giờ của mình cho những người Tây phương đến gặp ngài, và một số trong những người này đã trải qua nhiều tháng thực hành dưới sự dẫn dắt của ngài. Chính nhờ kết quả của những khẩn cầu riêng của ngài đối với những Đạo sư vĩ đại khác, trong số đó có Kyabje Dilgo Khyentse Rinpoche và Kyabje Dudjom Rinpoche, Jetsün Jampa Chökyi, và các con trai của ngài là Taklung Tsetrul Pema Wangyal Rinpoche, Jigme Khyentse Rinpoche và Rangdröl Rinpoche, cũng như hoạt động Giáo pháp của ba cô con gái là Rigdzin-la, Yangchen-la, và Chökyi-la, mà hiện nay nhiều người Tây phương đã có thể học tập và thực hành Giáo pháp, một số trong đó đang ở trong bối cảnh của khóa nhập thất ba năm.