Sư tử tuyết bờm xanh

Kẻ phiêu bồng giác ngộ

Patrul Rinpoche (8) được xem là bậc thầy hiệu quả nhất của phái Đại Thành (Dzogchen) trong thế kỷ 18. Đại Thành (9) có nghĩa ‘Tri kiến trực tiếp về tự tính thanh tịnh’. Vì vậy Đại Thành không phải chỉ là một tông phái hay một phép tu, không chỉ là một dòng tái sinh, không phải chỉ là trạng thái đạt đạo. Đại Thành chính là tinh yếu của giáo pháp đức Phật. Vì lẽ đó mà Patrul Rinpoche được xem không phải chỉ là một vị đạo sư, thi sĩ hay nhà tiên tri, ngài cũng là một vị Phật hoàn toàn. Thực ra, người ta xem ngài là một trong những tái sinh của đức Quán Âm mà người Tây Tạng gọi là ‘Chenrezig’: lòng đại bi.

Có lần trong một chuyến du hành Patrul Rinpoche gặp một nhóm Lạt ma, các vị đó trên đường tham dự buổi lễ tại miền Đông Tây Tạng. Các vị Lạt ma không nhận ra Patrul, thấy ngài trong bộ quần áo nhàu nát, với thái độ khiêm tốn, cho rằng đây cũng chỉ là một kẻ tầm đạo. Vì thế họ vui lòng cho Patrul tham gia trong nhóm, bắt nấu trà, nhóm củi và phục vụ các vị lớn tuổi trong đoàn. Đoàn vừa đến vùng Kham thì có tin gần đó có một vị Lạt ma cao cấp sẽ chỉ dẫn và khai thị cho đoàn. Nhóm Lạt ma vội vàng lên đường để tham dự buổi lễ. Tất cả Lạt ma và cư sĩ được đưa vào ngồi theo thứ tự chính thức, người được ngồi trên ghế trọng vọng, kẻ phải đứng ở xa. Các vị Tăng mang nón mũ, áo quần, huy hiệu hết sức rực rỡ. Vị Tăng thống ngồi trên một bệ cao. Sau khi tiếng còi, tù và, chiêng trống dứt hẳn và phần nghi lễ đã qua thì mọi người hiện diện lần lượt đi qua trước vị đó để nhận phép lành và gửi nơi chân vị Tăng thống một tấm khăn trắng.

Trước hết vị Tăng thống đưa tay sờ đầu các người đi ngang. Về sau khi thấy đoàn người quá nhiều đi không muốn hết, ngài chỉ còn sờ đầu bằng một sợi lông công. Hàng giờ trôi qua, cuối cùng người còn lại là một kẻ quần áo lôi thôi, vốn đi nấu trà cho một nhóm Tăng sĩ không mấy quan trọng. Vị Tăng thống bỗng mở mắt thật lớn nhìn con người có dáng vẻ phiêu bạt đang quỳ dưới chân mình. Người đó không ai khác hơn chính là một vị Phật đang hiện tiền, vị đạo sư Đại Thành (dzogchen) Patrul Rinpoche độc nhất vô nhị và người đó lại đang xin phép lành của mình.

Vị Tăng thống nhảy ào từ trên cao xuống, nằm mọp dưới chân kẻ áo quần rách rưới. Đám đông hoảng hốt kêu lên sợ hãi, vị Tăng thống ngồi dậy, dúi vào tay Patrul Rinpoche sợi lông công rồi lại quỳ xuống. Patrul khoát tay từ chối, sau đó đưa tay nâng vị Tăng thống lên, không để cho vị này cứ quỳ lạy mình mãi.

Tu tập hạnh nhẫn nhục

Cách đây khoảng một thế kỷ, vào thời đại sư phái Đại Thành là Patrul Rinpoche chuyên độc hành mọi nơi, với một chiếc áo lông cừu cũ nát, không mấy người hay biết. Trên bước đường rong ruổi, ngài có nghe nói đến một vị ẩn cư cả chục năm nay trong một hang động tối tăm, chuyên tâm thiền định và đã đạt được thần thông đáng kể. Patrul lên đường tìm gặp vị tu sĩ này và xem mình có thể giúp được gì cho người này không. Patrul đột ngột đi thẳng vào hang động đó, ngồi bên cạnh và cười thân thiện. Người tu sĩ nọ hỏi: ‘Ngươi là ai, từ đâu đến và đi về đâu trong cái xứ trơ trụi này?’ Patrul đáp: ‘Tôi đến từ sau lưng tôi và đi về phía trước”. Kẻ độc cư hỏi: ‘Thế ngươi sinh ở đâu?’

‘Ở trên trái đất’.

Tu sĩ bắt đầu mất kiên nhẫn: ‘Hãy nói tên ngươi ta nghe’. “Vô tích sự” – Patrul đáp. Sau khi trả lời, Patrul hỏi tại sao tu sĩ lại ẩn cư trong chốn thâm sơn cùng cốc này. Kẻ ẩn cư này hầu như chỉ đợi câu hỏi đó, trả lời một cách hãnh diện: ‘Ta ngồi đây đã hai mươi năm để thiền quán và tu tập hạnh nhẫn nhục’.

‘Đáng khâm phục’, người khách trả lời và lè lưỡi tỏ vẻ nể trọng. Sau đó Patrul kề môi nơi tai người tu sĩ: ‘Nhưng hai kẻ già đời như chúng ta đều biết thừa rằng chẳng bao giờ đạt được cái đó, phải không nào?’ Người tu sĩ nhảy dựng ra khỏi thế ngồi liên hoa: ‘Ngươi muốn gì mà quấy rầy ta một cách thô bỉ thế? Ngươi là ai mà lại dám không kính nể ta?’

Patrul trả lời: ‘Vâng, chúng ta là gì, là ai, bạn và tôi, và… hạnh nhẫn nhục của bạn đâu rồi?’

Con chó thân mến

Thời còn trẻ, Patrul Rinpoche là học trò của nhiều đại sư nổi tiếng vào thế kỷ 19. Vị thượng tọa Gyaway Nyugu vừa chỉ dạy cho Patrul về Phật tính ẩn náu bên trong thì Patrul gặp đại sư Doe Khyentse (10). Đây là một vị sư có tính tình kỳ cục và lần đó đã chặn cửa không cho Patrul vào thăm một người bạn. “Ê, hộ pháp vĩ đại kia, ngươi biết ta là ai không?” Doe Khyentse châm chọc. Patrul đã nghe danh ông sư kỳ quái này rồi. Ông đã từng xách súng qua làng qua xóm, hăm dọa nhiều người, làm người ta giật mình sợ hãi, với mục đích là đánh thức giấc ngủ tâm linh triền miên của con người. “Ngươi hãy tới gần đây, nếu ngươi có gan!”, Doe Khyentse hăm. Patrul tới gần ông sư đáng sợ đó. Doe chụp tóc thắt bím của Patrul, quật ngã sóng soài.

“Hơi thở của Doe Khyentse có mùi bia. Ông ta đang say, ta không chấp”, Patrul nghĩ thầm. Nhưng Doe Khyentse là người đọc được ý nghĩ của người khác. “Ngươi là kẻ dùng trí, kẻ học rộng biết nhiều, là kẻ ưa thích phân biệt”, ông hét. ‘Bộ ngươi không biết rằng tất cả đều thanh tịnh, tất cả đều hoàn hảo ư, con chó thân mến!’. Ông giơ ngón tay út lên, đối với người Tây Tạng, đó là cử chỉ khinh bỉ nhất, nhổ vào mặt Patrul rồi đi mất.

Ngay lúc đó học trò Patrul bỗng đạt một bước giác ngộ. Trong một tia chớp của tuệ giác, Patrul nhận ra rằng, tâm thức phân biệt của mình vốn không hề rời tâm giác ngộ rực sáng của Phật, vô thủy vô chung là một với thể tánh đó, từ thể tánh đó mà phát ra thiên hình vạn trạng sự vật. Một niềm an lạc vô biên tràn ngập trong lòng Patrul. Patrul ngồi yên trong bụi cát, nơi mà Doe đã ném huỵch ông xuống đất, để cho mặt trời chiếu rực trên đầu và không cần để ý người qua kẻ lại.

Ngày sau, khi Patrul được tôn thành Rinpoche (cao quý), ngài vẫn thường nhắc lại phương tiện giáo hóa của thầy mình và nói: ‘Nhờ tính bất ngờ vô song và lòng từ bi của đức Khyentse mà một trong những danh hiệu của ta là “con chó thân mến”. Với lòng sở cầu và tâm vô phân biệt, ta đi khắp xứ sở. Tự do như con chó ghẻ lở, chẳng còn ai muốn dạy dỗ.

Surya Das

Việt dịch: Nguyễn Tường Bách

Trích: Sư tử tuyết bờm xanh