Bồ Đề Tâm Ly Tướng Luận

Con xin quy mệnh kính lễ hết thảy chư Phật.
Nay con xin nói qua về nghĩa “bồ-đề-tâm”.
Con cũng xin chí thành đỉnh lễ bồ-đề-tâm.

Nghĩa của bồ đề tâm cũng như một đạo quân dũng kiện, cầm những đồ binh khí tinh nhuệ, quyết đem lại thắng lợi trong cuộc chiến. Chư Phật, Thế Tôn cùng chư Đại bồ tát, đều do nhân duyên phát tâm đại bồ đề mà thành đạo quả. Con nay cũng phát tâm bồ đề như thế.

Thực vậy, chư Phật từ khi phát tâm cho đến khi ngồi trên đạo tràng bồ đề, thành quả chính giác, đều do nơi tâm bồ đề kiên cố của mình. Tâm bồ đề ấy, cũng là hành môn tổng trì (2) của các Bồ tát. Quán tưởng như thế sẽ phát minh như thế.

Nay tôi nói lời tán thán tâm bồ đề ấy, là vì tất cả chúng sinh. Tôi mong chúng sinh khỏi bị sự đau khổ trong vòng luân hồi sinh tử. Tôi mong tất cả chúng sinh, nếu ai chưa được độ sẽ được độ, chưa giải thoát sẽ được giải thoát, chưa an ổn sẽ được an ổn, chưa chứng niết bàn sẽ chứng được niết bàn. Vì muốn thành tựu viên mãn thắng nguyện như thế, vì muốn an lập thể nhân (3) chân chính của tự-tướng, vì muốn thể nhập vào chân thực quán của đệ nhất nghĩa, vì muốn thể nhập vào tự tướng vô sinh của bồ đề tâm kia, nên nay tôi viết ra luận này.

“Bồ đề tâm xa lìa hết thảy tính”.

HỎI: “Tại sao lại nói là Bồ đề tâm xa lìa hết thảy tính?”

ĐÁP: “câu nói ấy có nghĩa là, đối với năm uẩnmười hai xứmười tám giới, chúng đều thuộc về pháp vô ngã bình đẳng, xa lìa thủ và xả, tự tâm của chúng bản lai không sinh, và tự tính của chúng bản lai vốn không. Như thế, tại sao trong đây lại nói về ngã, uẩn, xứ, giới có chỗ biểu lộ rõ ràng mà phân biệt được tâm hiện tiện vô thể? Do đó, nếu ai thường giác liễu tâm bồ đề, tức là người ấy an trụ vào không tướng của các pháp. Chỗ thường giác liễu tâm bồ đề kia: dùng bi tâm quán, lấy đại bi làm thể. Bởi thế, trong các pháp như uẩn, xứ, giới v.v…, không có ngã tướng nào có thể tìm được.

Các ngoại đạo khởi ra các hành tướng phi tướng ứng, chấp tướng phân biệt, cho rằng các uẩn là có, chẳng phải là pháp vô thường. Nhưng, thực ra, chúng chẳng phải thuộc về tướng ngã, pháp mà có thể tìm được. Trong tính chân thực, sự nhậm trì của các pháp, không thể chấp là “thường” cũng chẳng phải là “vô thường”. Trong các uẩn nơi ta, tên còn không có thực, huống là còn có sự tạo tác hay phân biệt. Nếu nói rằng có một pháp hay các pháp nào đó, đó chỉ là lời nói theo tâm của người đời, tùy chuyển theo hành động của người đời, mà chúng chẳng phải ứng hợp với hành tướng thường hằng như thực, nên nghĩa ấy không phải. Vì thế, các pháp vô tính. Dù chúng thuộc bên trong hay bên ngoài cũng không có thể phân biệt được.

Vậy, do nhân gì mà họ thường có tâm chấp trước như thế? Vì họ không xa lìa được sự tùy theo hành tướng của đời. Nếu nương vào nhân, nương vào tướng thì đó thuộc về hai loại không cần phân biệt. Đó tức là chẳng phải thường và cũng chẳng phải là có thể chấp. Tâm tính không thể chấp “thường”. Những tính “vô thường” lại cho là “thường”. Nếu biết những tính kia là vô thường thì chúng ta từ chỗ nào tạo tác ra và chúng từ chỗ nào phát sinh ra, mà chấp lấy tướng “ngã” của những pháp ấy? Nếu xa lìa được giả tướng của thế gian rồi, đối với các uẩn không có chướng ngại. Giác liễu rồi, đối với mười hai xứmười tám giới cũng không có chướng ngại. “Thủ” và “Xả”, tức thời, không thể tìm đâu ra được.

Trong bài luận này nói về chữ “Uẩn”, tức là nói về: sắc, thụ, tưởng, hành và thức. năm uẩn này là mục tiêu tu học của các bậc Thanh-Văn. Sắc như đống bọt. Thụ như bọt nổi. Tưởng như tia sáng thái dương. Hành như vỏ cây chuối. Thức như người làm trò huyễn thuật. Nghĩa của năm uẩn này, chư Phật Thế Tôn, cùng chư Bồ Tát cũng đều nói về thí dụ như thế.

Nay lược tỏ về hành tướng của SẮC UẨN. Tứ đại chủng (đất, nước, lửa, gió) và những pháp gì do chúng tạo ra, đó là Sắc uẩn. Những pháp không phải là Sắc uẩn, là thuộc về ba uẩn: Thụ, Tưởng và Hành. Hành tưởng của thức uẩn sẽ thuyết ở phần sau.

Nó về XỨ, tức là nói về: nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý-xứ ở trong và sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp-xứ ở ngoài. Đó là nói về mười hai xứ ở bên ngoài.

Nói về GIỚI, tức là nói về giới phận của nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý-căn; giới phận của nhãn, nhĩ, tỵ, thiệt, thân, ý thức và cảnh giới của sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp trần. Đó là mười tám giới.

Như thế, Uẩn, Xứ và Giới, chúng xa lìa các sự thủ và xả. Chúng không có phương sở, không có giới phận, không thể phân biệt được. Phân biệt để thấy, nghĩa ấy không phải. Vì, tùy theo sự phát khởi ra phân biệt tức thì nó có ra chỗ chấp trước. Như thế, làm sao chúng tương ứng với nhau được? Nếu có một ảnh tướng nào bị thấy ngoài nghĩa ấy, đó là nó bị sự chuyển biến của trí tuệ phá hoại. Có chỗ nói: ý trưởng dưỡng cho Sắc uẩn là nghĩa thế nào? Đó là nghĩa “phi nhất, phi dị” (chẳng phải là một, chẳng phải là khác). Có những ngoại đạo như Ba-rị-một-ra-nhã-ca…(4) , họ tùy theo vào sự thấy biết khác lạ, khởi ra sự phân biệt ba chiều (có, không, không có, không không…). Nghĩa ấy không đúng. Như người trong mộng, mơ thấy mình đang làm việc sát hại, nhưng chỗ hành tướng tạo tác là giả, không thực. Lại như có người mơ thấy họ đang ở nơi tốt đẹp tối thượng, nhưng sự thực, nơi chốn ấy không phải là hành tướng thù thắng. Thế là nghĩa gì? Nghĩa là, ánh sáng của THỨC đã phá hủy ảnh tướng của thủ, xả. Pháp của Thức như thế, làm gì còn có nghĩa ngoài nào khác nữa. Cho nên, các pháp không có ngoại nghĩa. Chỗ biểu hiện của hết thảy sắc tướng, do ánh quang minh nơi tự thức làm cho sắc tướng soi tỏ. Ví như người ta thấy sự huyễn hóa của ánh thái dương biến ra thành Càn-thát-bà (5), lại chấp trước là thực. Những người vô trí do tâm ngu chấp, quán sát các cảnh sắc cho là thực, cũng như thế. Do ngã chấp ấy, tâm thức tùy theo đó chuyển biến.

Như trên kia đã nói về nghĩa của uẩn, Xứ, Giới. Chúng xa lìa tất cả các giới phận sai biệt. Chúng chỉ do sự bị xếp đặt nơi phận vị của tâm thức. Sự thành tựu của nghĩa ấy, trong Thành-Duy-Thức đã nói.

Trước kia có nói qua về năm uẩn, nhưng, tự tướng của THỨC như thế nào? – Thức cũng có nghĩa như chữ Tâm. Như đức Phật, Thế Tôn thường nói: “hết thảy các pháp chỉ do sự biến hiện của tâm”. Nghĩa ấy rất sâu, những người ngu si không thể hiểu và không thấy được lý chân thực của nó. Cho nên, để cho ngã tướng rỗng không, tâm ấy không sinh ra sự phân biệt. Khởi ra tâm phân biệt, đó là tà giáo và chỗ kiến lập của họ không thành nghĩa gì cả. Vì nghĩa như thực của nó là thấy sự sự vật vật (pháp) là vô ngã. Ngay trong Đại thừa, nghĩa của pháp (sự vật) cũng là vô ngã, vì bổn lai, tự tâm không sinh. Nhưng, nếu có, đó là tùy theo chỗ sinh khởi của nó, song, nó vẫn đều bình-đẳng. Tự tâm tăng thượng, thể nhập vào nghĩa chân thực, vì chỗ ấy xuất sinh ra Du-già hành-môn (6). Nhưng, trong vấn đề này chúng ta cần biết, chỗ y chỉ của pháp nọ, pháp kia là không có thực thể. Đó chỉ gọi là sự hiện hành của tịnh tâm mà thôi.

Nếu là pháp quá khứ, quá khứ không thực. Nếu là pháp vị lai, vị lai chưa đến. Nếu là pháp hiện tại, hiện tại không trụ. Vậy, các pháp ở trong ba đời nên gọi thế nào là “trụ”? – Như quân số, như rừng cây, do sự hợp thành của nhiều pháp. Thức là tướng vô ngã. Thức chẳng phải là chỗ sở y. Thấy được các pháp như thế, chúng cũng như đám mây đỏ, tan diệt một cách nhanh chóng. Có các pháp, do nơi suy nghĩ biến hiện ra. A-lại-gia-thức (7) cũng như thế. Sự có đi, có lại của các loài hữu tình, vì “pháp nhĩ như thị” (sự vật như thế là như thế). Ví như biển lớn, mọi dòng nước đều chảy về đó. Chỗ y chỉ của A-lại-gia-thức cũng như thế.

Nếu có sự quán sát các Thức kia như thế, tâm không sinh phân biệt. Nếu mỗi loại kia đều có sự biết như thế, tên của mỗi loại ấy còn gì để nói. Nếu mỗi loại kia đều biết được vật tính của chúng, mỗi loại ấy đều không thể nói ra được. Vì nói ra lời nói ấy là lời nói quyết định sinh. Lời nói quyết định, nên các pháp cũng quyết định sinh. Đối với hết thảy sự việc, thành tựu theo sự chuyển biến. Năng tri (chủ động về sự biết), sở tri (bị động về sự biết) là hai phần sai biệt. Sở tri nếu không có năng tri làm sao thành lập được. Hai phần ấy đều là pháp vô thực, làm sao chứng thực được. Cho nên, sở dĩ nói về chữ “tâm”, là nói lên cái tên. Cái tên ấy không phân biệt và không thể chứng được. Đó chỉ là biểu lộ sự thấu suốt tự tính của cái tên kia và nó cũng không có thể chứng thực được.

Do các nghĩa ấy, các bậc trí giả cần nên quán sát tự tính của tâm bồ đề như huyễn. Dù là bên trong hay bên ngoài, hay trung gian của hai phần ấy, chúng ta cố gắng tìm cầu cũng không thể chứng thực được. Không có pháp nào có thể nắm giữ được. Không có pháp nào có thể xả bỏ được. Chẳng phải dựa vào hình sắc để có thể thấy. Chẳng phải do nơi hiển sắc mà có thể biểu lộ. Chúng chẳng phải tướng nam, nữ. Chúng chẳng phải tướng hoàng môn (8). Chúng chẳng trụ trong tất cả các sắc tướng. Không có pháp nào có thể thấy. Cũng chẳng phải thấy do cảnh giới của nhãn căn. Chỉ có hết thảy chư Phật dùng Phật trí quán sát bình đẳng mới có thể thấy được.

Trong pháp bình đẳng, nếu tâm là tự tính hay là vô tự tính, làm sao thấy được? – Nói về “tính”, là còn có cái tên phân biệt. Lìa khỏi phân-biệt mới thấy được tâm, trong này, làm sao lại nói là “không”? – Vì vậychúng ta nên biết là không có “năng-giác” và cũng không có “sở-giác”. Nếu thường quán tâm bồ đề như thế, liền thấy được Như-Lai. Nếu có năng giác và có sở giác, tâm bồ đề không thể thành-lập dược. Nó vô tướng. Nó vô sinh. Chẳng phải dùng con đường ngôn ngữ mà có thể khen ngợi nó được.

Tâm bồ đề cũng như hư không. Tâm và hư-không, không có hai tướng. Đây nói, tâm và hư không, là nói về trí chân không bình đẳng. Thần thông của Phật với Phật, Phật với Phật không khác nhau. Sự nghiệp của chư Phật trong quá khứ, hiện tại, vị lai, tất cả đều nhiếpntàng và an trụ trong cảnh giới bồ đề. Tuy sự nghiệp ấy gọi là nhiếp tàng, nhưng hết thảy pháp thường thường vẳng lặng.

Quán sát các pháp vô thường đều như huyễn hóa. Chúng chẳng phải bị nhiếp tàng. Chúng điều phục cả ba hữu: Dục hữu, sắc hữu và Vô sắc hữu. Chúng trụ trong pháp không. Các pháp vô sinh, đây nói là “không”. Các pháp vô ngã cũng nói là “không”. Nếu đem vô sinhvô ngã mà quán là “không”, quán ấy không thành. Nếu đem nhiễm và tịnh mà phân biệt, chúng liền thành hai thứ kiến tướng: đoạn và thường. Nếu dùng trí quán-sát về tướng không kia, tướng không kia không có bản thể phân biệt. Cho nên tâm bồ đề xa lìa các sở duyên mà trụ trong tướng hư không. Nếu quán hư không là nơi bị an trụ, trong ấy phải có không, có tính. Có hai tên sai biệt, “không” ấy cũng như con sư tử ở thế gian, nó rống lên một tiếng, làm cho các loài thú đều sợ. Như nói một chữ “không”, mọi ngôn ngữ đều vẳng lặng. Vì vậy, nơi này nơi khác thường lặng, cái này cái kia đều không.

Thức pháp là pháp vô thường. Nó từ vô thường sinh ra. Tính vô thường là tâm bồ đề. Đây nói về nghĩa không, hẳn chúng cũng không trái nghịch nhau. Tính vô thường là tâm bô đề, ưa thích bồ đề là tâm bình đẳng. Tuy nhiên, nơi đây cũng chẳng nói là ưa thích cái không. Tâm chấp cái không, làm sao chứng ngộ được. Bản lai tự tính chân thực, hết thảy đều thành tựu nghĩa bồ đề tâm. Vật vô tự tính. Tính vô tự tính, là nghĩa của thuyết này.

Thuyết này như thế, đối với tâm ra sao? Nếu xa lìa ngã và pháp thì tâm không trụ. Đây chẳng phải là một pháp cũng chẳng phải là các pháp. Tự tính của mỗi pháp, tự nó cách ly với tự tính của nó. Như đường mật, ngọt là tự tính. Như lửa, nóng là tự tính. Các pháp kia không, tự tính cũng vậy. Tính của các pháp kia, chúng chẳng phải thường, chẳng phải đoạn, chẳng phải được, chẳng phải lìa. Vì nghĩa ấy, vô minh là đầu, lão tử là cuối, các pháp duyên sinh được thành lập ra. Ví như mộng huyễn, thể nó không thực. Vì do nghĩa ấy, nói ra mười hai chi pháp, tức cũng gọi là mười hai chi luân. Chúng luân chuyển tuần hoàn trong cửa sinh tử, mà thực không có ta, không phân biệt với chúng sinh và không sai biệt với ba thứ: nghiệp, hành và quả báo.

Trong ý nghĩa ấy, nếu thấu suốt pháp duyên sinh, tức thì ra khỏi các cửa cảnh giới sinh tử. Sự kiện kia, chẳng phải là hành tướng, chẳng làm băng hoại chính nhân, mà nó do UẨN sinh ra. Chẳng phải là hành tướng của biên tế sau khi bị luân hồi. Hết thảy đều không nắm giữ được “không”, vì do “không” sinh ra. Pháp pháp bình đẳng, tạo nhân chịu quả, là lời Phật nói. Có các pháp hợp loại mà sinh ra, như đánh trống có tiếng, như trồng lúa mạch sinh mầm. Các pháp hợp loại khác, nghĩa cũng như thế. Như huyễn như mộng, bị sự biểu hiện của duyên sinh. Các pháp nhân sinh, mà cũng là vô sinh. Nhân này nhân khác tự nó là không, làm sao sinh ra được. Do đó, các pháp thuộc về vô sinh, tức là do vô sinh mà gọi là “không”.

Như nói về năm uẩn, tính của năm uẩn bình đẳng. Hết thảy các pháp cũng nên quán niệm như thế. Nếu nói là “không”, là nói trong nghĩa như thực. Vì chỗ bị nói là không ấy, thể của nó chẳng phải đứt đoạn. Trong thể chẳng phải đứt đoạn ấy, thực cũng không thể nào tìm kiếm được. Nói thể là không, không cũng không phải là thể. Hiểu nó là không thực, sự tạo tác là vô thường. Các nghiệp, phiề -não chứa góp lại làm thể. Nghiệp ấy cũng từ tâm sinh ra. Tâm không trụ, nghiệp làm sao có thể tạo được. Tâm khoái-lạc là tính tịch-tĩnh. Tâm tịch tĩnh kia không thể nắm giữ được. Các bậc trí giả nến quán sát sự vật một cách như thực. Thấy được lẽ như thực ấy, là được giải thoát.

Tâm bồ đề ấy là sự chân thực tối thượng. Nghĩa chân thực ấy là “không”. Cũng gọi là “chân như”. Cũng gọi là “thực tế”. Đó là đệ nhất nghĩa đế về vô tướngNếu không thấu suốt được về nghĩa “không” như thế, là chẳng phải đã thuộc về phần giải thoát, mà đối với trong cảnh luân hồi, người ấy là đại ngu si. Người sống trong cảnh luân hồi, bị luân chuyển trong sáu thú: thiên, nhân, a-tu-la, địabngục, ngã quỷ và súc sinh.

Nếu bậc trí giả thường quán tưởng tâm bồ đề kia một cách như thực, cùng tương ứng với nghĩa “không”, khi quán tưởng rồi sẽ thành tựu được ý niệm lợi tha và được trí tuệ vô ngạivô trước. Đó là biết ơn và báo ơn Phật. Thường đem bi tâm quán tưởng tới tất cả mọi chủng tướng chúng sinh, cha mẹ quyến thuộc, vì lửa dữ phiền não thiêu đốt, khiến cho các chúng sinh bị luân hồi sinh tử. Chúng sinh chịu khổ, tôi sẽ chịu thay. Như trong trường hợp có sự vui hòa hợp, chúng ta nên nhớ nghĩ và bố thí cho tất cả chúng sinh.

Quán tưởng về nghiệp quả của ái và phi ái, thiện thú và ác thú, lợi ích và không lợi ích, mà bản lai của các chúng sinh không thực chứng được. Tùy theo sự sai biệt của trí-tuệ, khởi ra mọi thứ sắc-tướng: Phạm-Vương, Đế-Thích, Hộ-Thế Thiên-Vương v.v… Là trời hay là người, hết thảy đều không lìa khỏi hành tướng thế gian.

Quán tưởng về các nơi địa ngục, ngã quỷ, súc sinh. Tất cả chúng sinh ở trong các cõi ấy, có vô lượng vô số chủng loại sắc tướng. Sự đau khổ, không được nhiêu ích, thường bị chuyển theo chủng loại. Đói khát bức bách, giết hại lẫn nhau. Bởi nhân như thế, nên quả khổ không bị tiêu hoại. Chư Phật, Bồ Tát quán tưởng về tự tướng nghiệp báo như thực của hết thảy chúng sinh trong các thiện thú vá ác thú như thế. Quán tưởng rồi, các Ngài liền khởi ra tâm phương tiện, khéo léo giúp đỡ chúng sinh, làm cho chúng sinh xa lìa các nghiệp cấu. Bởi thế, các vị Bồ Tát lấy tâm đại bi làm căn bản, lấy chúng sinh kia làm cảnh sở duyên. Các vị Bồ Tát không chấp trước vào những ý vị vui sướng trong các loại thiền định, không cầu tự lợi trong việc được các quả báo. Vượt qua quả địa Thanh Văn, các Ngài không bỏ chúng sinh, tu hạnh lợi thaphát tâm đại bồ đề, nẩy mầm mống đại bồ đề và cầu quả bồ đề của Phật. Các Ngài đem tâm đại bi quán tưởng về sự đau khổ của chúng sinh. Các Ngài thấy ngục A-tỳ (9) rộng lớn vô biên, chúng sinh tùy theo nghiệp nhân, phải bị luân chuyển vào khổ báo ấy. Mọi tội báo ấy phải chịu mọi thứ đau khổ. tâm đại bi của các vị Bồ-Tát, các Ngài nghĩ, các Ngài muốn chịu khổ thay cho chúng-sinh. Mọi thứ khổ ấy, có mọi thứ hình tướng, nói ra như không có thực, nhưng cũng chẳng phải là không thực.

Nếu thấu suốt lẽ “không”, liền biết rõ các pháp ấy, thuận hành theo các nghiệp quả của chúng-sinh. Các vị Bồ Tát vì muốn cứu độ chúng sinh, các Ngài khởi ra tâm dũng mãnh, lăn vào nơi bùn lầy sinh tử. Các Ngài tuy ở trong sinh tử, nhưng không nhiễm trước. Ví như hoa sen thanh tịnh không nhiễm. Các Ngài lấy đại bi làm thể, nên không bỏ chúng sinh, dùng không trí quán tưởng, nên không lìa phiền não.

Bồ Tát dùng sức phương tiện, thị hiện việc giáng sinh nơi vương cung, vượt thành xuất gia, tu đạo khổ hạnh, ngồi nơi đạo tràng bồ đề, thành Đẳng Chính Giác. Ngài hiện thần thông lực phá các ma quân, vì độ chúng sinh, chuyển đại pháp luân. Ngài hiện ra ba đạo bảo-giai, từ trên cung trời giáng xuống. Ngài hiện ra các hình-tướng biến-hóa. Ngài thuận theo tình đời, nhập đại-niết-bàn. Và, trong khoảng trung-gian ấy, Ngài hiện ra các sắc-tướng, hoặc làm Phạm Vương, hoặc làm Đế Thích v.v… Là Trời hay là người… tùy theo các sắc tướng mà chuyển. Do Ngài thị-hiện ra các sắc tướng nên người đời gọi là bậc “Cứu Thế Đạo-Sư”. Những sự kiện ấy đều là nguyện lực đại bi của chư Phật, Bồ Tát, điều phục thế gian, làm cho thế gian được an trụ vào những thắng hạnh tương ứng.

Thế nên, ở trong luân hồi các Ngài không sinh tâm thoái chuyển, mệt mỏi. Từ trong Nhất thừa nói ra pháp Nhị thừa. Nhất thừa, Nhị thừa đều ở trong nghĩa chân thực. Là bồ-đề của bậc Thanh-Văn hay là bồ-đề của Phật, chỉ là một tướng của trí-thân (chân-thân của trí-tuệ), một thể của chính-định. Tuy có nói, nhưng nói mà chẳng phải nói. Hoặc có nói ra mọi hành tướng, nhưng đó chỉ vì dẫn đạo chúng-sinh mà thôi. Nếu chúng sinh được lợi, bồ đề của Phật vẫn là phúc trí bình đẳng, thực không có hai tướng có thể trụ. Nếu có trụ tướng tức là chủng tử. Tướng chủng tử kia lại hợp theo loại sinh ra. Thế là làm tăng trưởng mầm mống sinh tử. Như đức Phật, Thế Tôn thường nói: “Chỉ vì chúng sinh tạo ra các phương tiện, phá hủy mọi hành tướng của thế gian, nhưng thực chẳng phải phá hủy.” Đó là có ý nghĩa xa lìa sự phân biệt. Nghĩa ấy rất sâu. Nghĩa rất sâu ấy không có hai tướng. Tuy nói là có phá hủy, nhưng đây chẳng phải là phá hủy.

Trong pháp “không”, không có hai tướng. Các pháp giữ vững tự tính chân thực của chúng. Trí ba-la-mật là tâm bồ-đề. Tâm bồ-đề trừ hết thảy “kiến”. Do đó, các thân, ngữ, tâm, đều thuộc về pháp vô thường. Nhưng chỉ vì chúng sinh, đem lại lợi ích cho chúng sinh mà thôi.

Trong này nói “không”, nhưng “không” không phải là đứt đoạn. Trong này nói “có”, nhưng “có” cũng chẳng phải là thường hằng. Thế nên, không có sinh tử, cũng không có niết bàn, mà đều an trụ vào “vô-trụ niết-bàn”. Chư Phật, Thế Tôn đều nói: “Bi-tâm khởi sinh ra, vô lượng phúc tụ hội.” Lời nói ấy là nói về lý “không” chân-thực tối thượng. Do uy-thần của chư Phật xuất sinh, mà hai hạnh tự-lợi và lợi-tha thành-tựu.

Con nay xin đỉnh lễ Nhất-Thiết-Tính kia. Con thường tôn kính Tâm Bồ-Đề kia. Mong chỗ xưng-tán của con đối với Phật-chủng không bị đoạn-diệt. Chư Phật, Thế-Tôn thường trụ ở thế-gian. Tâm bồ-đề là tâm tối thắng trong Đại-thừa. Chính-niệm của con an-trụ trong tâm ấy.

Tâm bồ-đề, trụ nơi tâm Đẳng-Dẫn (10), và từ nơi phương-tiện sinh ra. Nếu thấu suốt được tâm ấy, thấy sinh-tử bình-đẳng, hai hạnh: tự-lợi và lợi-tha thành-tựu. tâm bồ-đề, lìa các kiến-tướng, vô-phân-biệt-trí, chuyển biến chân-thực.

Các bậc trí-giả, phát tâm bồ-đề, hội-tụ được phúc-báo vô lượng vô biên. Nếu ai, trong khoảng sát-na, quán tưởng tâm bồ-đề, người ấy hội tụ được phúc báo, cũng không thể tính lường được. Vì, tâm bồ-đề, chẳng phải thuộc về loại tính lường. Chất liệu quý báu của tâm bồ-đề là thanh-tịnh không nhiễm. Nó thuộc vào bậc tối đại, tối thắngtối thượng, đệ nhất. Nó thuộc vào chất liệu chân thực kiên cố, không thể hoại và cũng chẳng phải là chỗ để hoại được. Nó thường phá các phiền-não, cùng tất cả các loại ma. Nó làm đầy đủ hạnh nguyện Phổ-Hiền (11) của các vị Bồ-Tát. Tâm bồ-đề là chỗ hướng về của hết thảy pháp. Nói lời chân thực, lìa các hý luận. Đây là hành-môn thanh-tịnh của Bồ-Tát Phổ-Hiền, xa lìa hết thảy tướng. Đây xin nói rõ như thế.

Tôi nay khen ngợi tâm bồ-đề,
Như Lưỡng-Túc-Tôn (12) chính nói ra.
Tâm bồ-đề ấy: tối tôn, thắng,
Người được phúc báo cũng không lường.
Tôi đem phúc này cho chúng-sinh,
Mong chóng vược khỏi biển tam hữu.
Khen ngợi như thực và như lý,
Trí giả cần nên học như thế.

Chú thích:

(1) Bồ-Đề-Tâm Ly Tướng Luận: Luận này mang số 1661 trong Đại-Chính Đại-Tạng Kinh. Bồ-Đề (Bodhi): Xưa dịch nghĩa là “đạo”, nay dịch nghĩa là “giác”. Đạo có nghĩa là thông suốt. Giác có nghĩa là giác-ngộ. Chỗ thông suốt, chỗ giác-ngộ ấy có sự và có lý. LÝ: Niết-bàn. Dứt phiền-não-chướng chứng Nhất-thiết-trí niết-bàn. SỰ: Các pháp hữu-vi. Dứt sở-tri-chướng, biết rõ nhất-thiết chủng-trí của các pháp. Bồ-Đề-Tâm: Tâm mong cầu chân-đạo hay tâm mong cầu đạt tới chỗ chính- giác. Bồ-đề-tâm có hai loại: 1) Duyên-sự bồ-đề-tâm: Lấy 4 hoằng-thệ-nguyện làm thể, để hóa-độ chúng-sinh và viên-thành Phật-đạo. 2) Duyên lý bồ đề tâm: Quán chiếu hết thảy pháp bản-lai tịch-diệt, an-trụ trong thực-tướng trung-đạo, nguyện thành chính-giác, hóa-độ chúng-sinh. Bồ-đề-tâm ly tướng có nghĩa là muốn đạt tới tâm bồ-đề chân-thực, cần quán-chiếu: ngã, pháp, uẩn, xứ, giới, các ảnh-tướng ấy đều là hư-huyễn, đều do tâm-thức biến-hiện. Lìa mọi hành- tướng, thành-tựu đệ-nhất nghĩa không. Đó là Bồ-đề-tâm ly tướng.

(2) Tổng-trì: Tiếng Phạm gọi là Đà-ra-ni (Dhàrani), Trung-Hoa dịch nghĩa là Tổng-Trì: Nghĩa là giữ cho điều thiện không mất, giữ cho điều ác không sinh. Thực- hành Tổng-trì có 4 pháp-môn: pháp, nghĩa, chú và nhẫn.

(3) Thể-nhân: Nhân-tố nguyên-thủy trong bản-thể của sự-vật.

(4) Ba-rị-một-ra-nhã-ca: Đây là phái ngoại-đạo, thực-sự xuất-gia. Trung-Hoa dịch- nghĩa là “Biến xuất” hay “Phổ hành”. Phái này cạo đầu, nhưng để một chút tóc trên đỉnh đầu, mặc áo màu đất đỏ, đi xin ăn, nhưng sự nhận-thức về sự-vật khác với giáo-lý của Phật.

(5) Thành Càn-thát-bà: Đây nói về sự-vật trong giả-tưởng. Ánh thái-dương chiếu xuống nơi có vỏ sò, vỏ ốc trong biển, ánh nắng hiện lên lấp-lánh, ở xa, người ta trông như là có tường thành của loại Càn-thát-bà. Càn-thát-bà (Gandharva), Trung- Hoa dịch nghĩa là “Tầm Hương”, tên một loại thần chuyên về âm-nhạc trên cõi trời Đao-Lợi. Nơi trình diễn âm-nhạc, có vẽ những thành-quách, phong-cảnh cho đẹp mắt. Cảnh vẽ thuộc về sự giả-tạo, không thực.

(6) Du-già (Yoga): Trung-Hoa dịch nghĩa là “tương-ứng”. Tương ứng với 5 loại: hoàn cảnh, hành động, lý luận, thành quả và căn cơ chúng-sinh. Đây là một pháp môn thực hành, ứng hợp với cảnh, hành, lý, quả và cơ.

(7) A-lại-gia thức (Alaya): Thức thứ 8 trong Duy-Thức-Học. Trung-Hoa dịch nghĩa là “Tạng-thức”, có nghĩa là Thức này hàm-tàng, hay cất giữ tất cả các hạt giống của sự vật.

(8) Hoàng-môn: Đây chỉ cho người mà phái-tính, hoặc bộ-phận sinh-dục không nhất định là nam hay nữ.

(9) A-Tỳ địa-ngục: A-Tỳ (Avichi), Trung Hoa dịch nghĩa là “vô-gián”. Đây là một địa ngục, không gian, cũng như sự trừng-trị tội nhân không chút gián-đoạn.

(10) Đẳng dẫn: Tiếng Phạm là Tam-ma-ế-đa (Samàhita), Trung Hoa dịch nghĩa là đẳng dẫn. Đây là một pháp trong pháp môn thiền định. Khi ngồi thiền, thân và tâm an hòa, bình đẳng, nên gọi là “đẳng dẫn” v.v…

(11) Phổ Hiền hạnh nguyện: Lời phát nguyện và thực hành của Bồ Tát Phổ Hiền. Bồ Tát Phổ Hiền có 10 đại nguyện chuyên hướng về sự thực hành, phụng sự Phật, Pháp và hóa độ chúng sinh.

(12) Lưỡng Túc Tôn: Đây chỉ về đức Thế Tôn, Ngài là bậc đầy đủ phúc đức và trí tuệ

Long Thọ Bồ Tát 

Việt dịch: Thích Tâm Châu