Giới

Tứ diệu đế thành lập nguyên nhân và mô hình cho việc hành Pháp. Để đạt được Niết Bàn, chúng ta phải tu tập tam vô lậu học: giới, định, tuệ (DN 10: 1.6). Tam vô lậu học này khác với tam học bình thường vì mục tiêu của chúng cao hơn. Hoàn thành xong tam vô lậu học là việc cần làm trong luân hồi (saṃsāra) chúng ta đã làm, chẳng hạn như sẽ có sự tái sinh tốt hơn. Tam vô lậu học hướng chúng ta tới giải thoát và giác tỉnh hoàn toàn.

Tầm quan trọng của Giới

Phật tử chấp nhận rằng cuộc sống con người có một mục đích sâu sắc hơn, ví dụ như có sự tái sanh tốt hơn, giải thoát, và thức tỉnh hoàn toàn là những mục đích đầy giá trị để hướng đến. Bởi phiền não ngăn cản chúng ta thực hiện mục đích đạo đức của mình, chúng ta nỗ lực chuyển hóa phiền não và thậm chí diệt tận chúng. Giới được thành lập để giúp chúng ta làm chủ thân, khẩu, ý của mình.

Theo truyền thống Phạn, trí tuệ nhận thức được sự vô ngã sẽ loại bỏ sự che chướng khỏi gốc rễ của ngã. Để sự tuệ tri được đúng đắn, nó cần phải có thiền định. Để có thiền định sâu sắc, cần phải chánh niệm vững vàng và nhận thức sâu sắc (sampajañña, samprabanya) để hàng phục những chướng ngại nội tại tinh tế. Những điều này ban đầu được thực hiện thông qua việc giữ giới để kiềm chế những chướng ngại thô buông lung bên ngoài của thân và miệng. Giới có nghĩa là kiềm chế không làm hại và áp dụng cho cả bậc xuất gia và tại gia. Phật giáo Tây Tạng có ba mức độ về giới: Biệt giải thoát (S: prātimokṣa, P: pāṭimokkha), Bồ tát và mật giáo (tantric). Giới biệt giải thoát (prātimokṣa) tập trung vào việc từ bỏ những hành động và lời nói có hại. Giới của Bồ tát nhấn mạnh việc lọc bỏ tư tưởng, lời nói và hành động lấy chấp ngã làm trung tâm. Giới của Mật giáo (tantric) nhằm vượt qua những chướng ngại tinh thần tinh tế. Bởi mục đích của giới dần dần tinh tế hơn, nên tam vô lậu học được thực hiện dần dần và theo thứ tự đó.

Một lòng hứa giữ giới là chúng ta đã nắm được chìa khóa cần thiết để đạt được sự chứng ngộ. Một số người vững mạnh nhanh chóng khi thọ giới, nhưng lại không vững lòng khi giữ giới. Ngược lại điều trên, chúng ta nên suy nghĩ sâu sắc trước khi thọ giới, rồi đảnh lễ tha thiết thỉnh giới sư truyền giới, và sau đó mạnh mẽ trì giới không lùi bước. Dù giữ giới Thanh Văn (Śrāvaka) hoặc Bồ Tát (Bodhisattva), giới vẫn là nền tảng của tu tập. Các giới luật biệt giải thoát (prātimokṣa) giúp chúng ta điều ngự thân, khẩu và nhân đó, tâm ý cũng được kiểm soát theo.

Tất cả các Phật tử cố gắng từ bỏ mười pháp bất thiện, giữ thập thiện để mang an lạc cho mình. Giới ngăn ngừa nghiệp phá hoại và thanh lọc những thói quen có hại. Giới cũng mang lại sự tích lũy công đức nhanh chóng, bởi lẽ mỗi khi chúng ta không phạm một giới, là chúng ta đang chủ động từ bỏ hành động phá hoại đó, do đó làm phong phú thêm tâm trí của chúng ta bằng công đức tác ý không phạm giới. Giới làm nguội đi các lửa phiền não, chuẩn bị tâm trí để đạt được trạng thái thiền định cao hơn, là con đường dẫn tới sự thức tỉnh của cả ba thừa và hoàn thiện sự mong muốn của chúng ta. Giới ngăn ngừa cảm giác tội lỗi, hối tiếc và lo lắng. Giới tránh được sự sợ hãi và hổ thẹn từ người khác và là nền tảng cho lòng tự trọng. Hành vi đạo đức giữ giới của chúng ta góp phần vào nền hòa bình thế giới, cho những người khác tin tưởng và cảm thấy an toàn xung quanh một người đã hoàn toàn từ bỏ mong muốn làm hại người khác.

Hành vi đạo đức tốt không thể bị đánh cắp hoặc tham ô. Nó là cơ sở để có một sự tái sinh may mắn, điều đó là cần thiết để tiếp tục thực hành giáo Pháp. Sống an ổn trong các giới luật sẽ tạo ra nhân tốt, để gặp cảnh thuận lợi và có thể tiếp tục tu tập trong tương lai. Bởi chúng ta quen thuộc đời sống giới hạnh trong tương lai để cởi bỏ những chấp trước và tiến tu, chúng ta sẽ đạt được giác ngộ một cách nhanh chóng.

Giới Biệt giải thoát (Prātimokṣa)

Động cơ chủ yếu để giữ tám giới (prātimokṣa) là quyết tâm thoát khỏi vòng luân hồi (saṃsāra). Có năm loại giới dành cho bậc xuất gia:

(1-2) Tỳ kheo cụ túc giới (bhikkhu, bhikṣu) và Tỳ kheo ni cụ túc giới (bhikkhunī, bhikṣuṇī),

(3) Thức xoa ma na (sikkhamānā, śikṣamāṇā),

(4-5) Sadi (sāmaṇera, śrāmaṇera) và sadini (sāmaṇerī, śrāmaṇerikā). Ba loại giới dưới đây là dành cho Phật tử:

(6-7) Ưu bà tắc (upāsaka) và Ưu bà di (upāsikā),

(8) Cận trú: những người giữ giới luật trong một ngày (upavāsa).

Phật tử trọn đời giữ năm giới: không sát sanh, trộm cắp, tà dâm, lừa dối, và uống chất say sưa (rượu, thuốc giải trí và lạm dụng thuốc theo toa). Khi giữ một ngày tu bát quan trai giới, hành giả phải: sự giữ gìn cho thân tâm được thanh tịnh trong 24 giờ bằng cách ngăn chặn 8 điều tội lỗi:

  1. Không sát sinh;
  2. Không trộm cướp;
  3. Không dâm dục;
  4. Không nói dối;
  5. Không uống rượu;
  6. Không trang điểm, dầu thơm, múa hát và xem múa hát;
  7. Không nằm ngồi giường cao rộng đẹp;
  8. Không ăn quá giờ ngọ (giữa trưa cho đến sáng hôm sau).

Mọi người có những khả năng và sở thích khác nhau, vì vậy có thể chọn loại giới (praticamokṣa) nào phù hợp nhất với mình. Cho dù bạn chọn giới nào, hãy thực hành giới luật với ý hướng tốt. Nếu mục đích là trốn nợ nần hoặc tránh chăm sóc con cái hay cha mẹ già đều không phải là những lý do chính đáng để xuất gia. Không phải là muốn có một nơi an nhàn trong chùa để sống hoặc nhận thực phẩm cúng dường của thí chủ mà xuất gia.

Một số người nghĩ rằng giới xuất gia là để kiềm chế những hành động tội lỗi về thân và khẩu, sự thanh khiết của giới luật chỉ liên quan đến những hình tướng bên ngoài – hành động và lời nói một cách tinh tế. Tuy nhiên, để thực sự chinh phục hành vi bên ngoài, đòi hỏi chúng ta phải chinh phục tâm trí, bởi vì tất cả các hoạt động của thân và miệng đều xuất phát từ ý chí tinh thần.

Đối với những ai chọn trở thành tu sĩ, giới luật là để giúp tăng trưởng sự thanh tịnh. Bởi vì chúng ta tự nguyện giới hạn những gì chúng ta làm, chúng ta thực hành biết vui đủ với những gì chúng ta có và buông bỏ những động lực ái dục của chúng ta. Đời sống nhà chùa có thể chỉ cho phép ăn trong một số thời gian quy định và không được yêu cầu loại thực phẩm cụ thể nào khác. Bất cứ điều gì vị tăng sĩ nhận được, vị ấy phải chấp nhận mà không đòi hỏi. Các tu sĩ Phật giáo không bắt buộc phải ăn chay, mặc dù các tu sĩ Trung Quốc giữ Bồ tát hạnh nên ăn chay.

Vị tăng sĩ được giới hạn có ba y, được xem như tài sản của riêng mình, không được đắp những y đắt tiền và chỉ giới hạn trong việc có một ít vật dụng cá nhân. Mọi thứ khác được xem như tài sản chung của chùa hay vì lợi ích được chia sẻ với các chùa khác. Điều này làm giảm tâm trí không hài lòng cứ loay hoay tìm kiếm “cái ngày càng nhiều và tốt hơn”.

Chùa cũng giới hạn mối quan hệ với gia đình để tránh sự lệ thuộc tình cảm và sự tham gia vào các hoạt động khiến vị tăng sĩ khó hành Pháp. Dùng pháp danh có nghĩa là bỏ lại đằng sau danh nghĩa cũ, ngoài đời, của chúng ta mà những người thân hoặc bạn bè dùng để nhận dạng mình.

Giữ giới (vinaya) phát triển chánh niệm và nhận thức sâu sắc. Khi chúng ta định làm một số việc gì đó, chúng ta liền trầm tư ngay lập tức nghĩ rằng “Tôi là một tăng sĩ và đã chọn không làm điều này”. Bằng cách nuôi dưỡng sự chánh niệm đó và kiểm tra xem hành vi của chúng ta có đúng hay không, khi chúng ta giác tỉnh, sự chánh niệm của chúng ta trở nên mạnh hơn và ngay cả cũng sẽ hiện ra trong giấc mơ của mình.

Giữ giới (vinaya) giúp chúng ta phát triển hạnh nhẫn nhục (khanti, kṣānti). Trong phần khuyến giới của giới bổn (Prātimokṣa Sūtra) dạy rằng “Nhẫn nhục đệ nhất đạo” (Nhẫn nhục là pháp môn thù diệu nhất). Đức Phật tuyên bố đó là con đường tối thượng để đạt đến Niết Bàn. Một người đã rời khỏi đời sống gia đình nhưng vẫn gây tổn thương hoặc còn làm hại người khác thì không được gọi là người từ bỏ thế gian.

Để phát huy đức hạnh này, Đức Phật dạy những tăng sĩ hãy thực hành bốn tình huống:

(1) Nếu những người khác đang giận chúng ta, phải nhẫn chịu và đừng phản ứng trả đũa lại.

(2) Nếu những người khác đánh chúng ta, đừng trả đũa lại.

(3) Nếu những người khác chỉ trích chúng ta, đừng để phê phán lại họ.

(4) Nếu những người khác bêu xấu hoặc xúc phạm chúng ta, đừng phản ứng bằng cách sỉ nhục hoặc xúc phạm họ. Đây là những hoàn cảnh thực tế thực sự giúp chúng ta tăng trưởng hạnh nhẫn nhục chịu đựng, mang lại sự hài hòa cho các mối quan hệ của chúng ta nói riêng và với xã hội nói chung, và dẫn đến sự thức tỉnh chánh niệm cho chính mình.

Một số người nghĩ rằng giới luật là những quy tắc bất khả kháng, được thành lập bởi một thẩm quyền tuyệt đối. Đương nhiên, điều suy nghĩ này khiến họ không thoải mái khi giữ giới. Thật ra, giới luật (prātimokṣa) không giống như vậy. Giới là những sư tu tập hữu ích để dẫn đến kết quả tốt lâu dài. Ví dụ, nếu chúng ta muốn khỏe mạnh, chúng ta tự nguyện chấp nhận những thói quen ăn uống mới và tránh những hoạt động làm suy yếu cơ thể chúng ta. Tương tự như vậy, khi chúng ta muốn từ bỏ sự vô minh, tức giận, và chấp trước, chúng ta tự nguyện giảm bớt các hành động do những yếu tố tiêu cực thúc đẩy và tránh tái phạm. Do đó các giới luật là tự nguyện, không bị ép buộc bởi một thẩm quyền bên ngoài nào. Giữ giới là do chúng tôi tự nguyện hộ chúng tôi để đạt đến mục đích tinh thần của mình.

Trong mười hai năm đầu của Phật giáo, Tăng già (Saṅgha) chưa có giới luật. Nhưng khi một số tăng sĩ có hành động sai trái và được báo cáo lên Đức Phật, ngài mới thiết lập một hệ thống giới luật để từ bỏ hành động không đúng pháp đó. Sau đó, do nhiều điều kiện khác nhau, ngài lại lập ra khai, giá, trì phạm tức tùy hoàn cảnh có những ngoại lệ mở ra không phạm hoặc đưa ra các hướng dẫn khác. Như vậy, các giới luật không phải là các quy tắc tuyệt đối tuân theo.

Một số giới luật liên quan đến quy ước xã hội. Vì nghi thức khác nhau từ văn hóa này sang văn hóa khác, nên giới luật phải uyển chuyển để thích nghi với từng nơi cụ thể.

Nói chung, giới luật là phổ biến cho cả ba thừa. Những ai theo Bồ Tát thừa hay mật tông không thể bỏ qua hoặc coi thường các giới luật (prātimokṣa) của họ. Trên thực tế, thái độ lơ là, không kính trọng các giới luật (prātimokṣa) là bị cấm tuyệt đối trong Bồ tát và mật tông, và làm như vậy là khiến Phật pháp suy sụp nghiêm trọng. Chúng ta phải cố gắng giữ gìn tất cả các giới luật của chúng ta càng lâu càng tốt.

Tại sao lại sống độc thân?

Kể từ khi xã hội hiện đại mở ra nhiều niềm vui tình dục, một số người tự hỏi tại sao tu sĩ lại giữ giới sống độc thân. Điều này liên quan đến mục đích tâm linh của chúng ta.

1. Ở cấp độ đầu tiên của tu tập, trong bản chất con người, việc dâm dục sẽ bắt nguồn cho việc luân hồi (saṃsāric), nên ở đây để giảm dần mức độ nặng nề của ái dục và tránh mười điều bất thiện như đã nêu trên. Nhiều người được khuyến khích không hưởng thọ nhục dục cực đoạn, từ bỏ những hành vi tình dục bạo hành không khôn ngoan hoặc tạo ra nỗi đau và nhầm lẫn cho bản thân hoặc người khác. Tuy nhiên, sử dụng hợp lý tình dục giữa vợ chồng là được phép cho các Phật tử tại gia. Thiền sư Thích Nhất Hạnh, một nhà sư Việt Nam nổi tiếng, xem tình dục mà không tình thương hiểu biết là tình dục không khôn ngoan.

Mặc dù điều này không được đề cập trong kinh Phật, nhưng tôi nghĩ điều đó là đúng. Tình yêu đối với người bạn đời và ý thức trách nhiệm là quan trọng cho sự ổn định và lâu dài của một mối quan hệ nam nữ.

2. Ở cấp độ thứ hai của tu tập, chúng ta không còn tìm kiếm những thú vui luân hồi (saṃsāri) nữa mà muốn vượt xa saṃsāra. Vì ái dục là một trong những nguyên nhân chủ yếu của saṃsāra, chúng ta muốn thoát ra khỏi sự dính mắc vào các đối tượng của năm căn là rất quan trọng. Trong tất cả các hình thức chấp thủ, ái dục là cực kỳ phức tạp và khó bởi vì nó liên quan đến tất cả năm căn cộng với ý căn. Như vậy, đức Phật khuyên những người tìm kiếm tự do khỏi tham ái.

Tại thời điểm này của đạo lộ này, chúng ta phải đối mặt và đi ngược lại những khuynh hướng có thể được coi là bản chất bình thường của con người và là một phần của đòi hỏi sinh học, bao gồm cả ham muốn tình dục. Mục đích của chúng ta bây giờ là giải thoát, vậy cần ngăn chặn các chấp trước vào quan hệ tình dục này. Mặc dù ái dục phát sinh tự nhiên trong cơ thể chúng ta, nhưng chúng ta phải kiểm soát nó. Do đó, việc thọ giới xuất gia được thực hiện với quyết tâm thoát khỏi saṃsāra và bao gồm một giới cấm nghiêm ngặt là không đụng chạm tình dục.

Các lực sĩ với mục tiêu cao phải bỏ các hoạt động làm cản trở khả năng đạt được mục đích của họ. Họ sẵn sàng kiêng ăn một số thực phẩm, tránh xã giao rộng và chỉ dành thời gian cho việc huấn luyện phù hợp.

Sự huấn luyện của họ không phải là đàn áp không lành mạnh nhưng là cần thiết và có khả năng để thực hiện mục tiêu mong muốn của họ. Tương tự như vậy, các tu sĩ sẵn lòng từ bỏ mối quan hệ tình dục và những khoái cảm nhục dục lạc vì những điều này không thể đạt được các mục tiêu tinh thần giải thoát của họ.

Nhiều nhân tố trong việc lựa chọn làm thế nào, hoặc có nên sử dụng tình dục và những điều này mỗi cá nhân cần xem xét cẩn thận cho mình. Đức Phật không nói rằng tất cả mọi người phải từ bỏ hoạt động tình dục bởi lẽ đó là sự lựa chọn riêng. Tuy nhiên, nếu trở thành tu sĩ, họ phải độc thân. Không có gì gọi là “nhà tu với vợ hay chồng!”

Các trường phái luật (Vinaya) 

Tất cả các trường phái luật (vinaya) được bao gồm trong Thanh Văn thừa (Śrāvakayāna). Không có điều gì giống như lễ thọ giới của đại thừa (Mahāyāna), mặc dù nhiều hành giả Bồ Tát hạnh phát tâm xuất gia và giữ giới (vinaya). Có ba hệ thống giới luật còn tồn tại bắt nguồn từ mười tám trường phái của Phật giáo Nguyên Thủy:

– Bộ Luật Nguyên Thủy (Theravāda Vinaya) (T. gnasbrtanpa, C. shangzuo-bu): là bộ luật viết bằng ngôn ngữ Pāli và được thực hành chủ yếu ở Nam và Đông Nam Á. Nó xuất phát từ dòng truyền thừa của Tích Lan (Sri Lanka) do con gái và con trai của Vua A Dục (Aśoka) vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch mang đến Tích Lan.

– Bộ Luật Đàm Vô Đức (Dharmaguptaka Vinaya) (T. chos sbas pa, C. fazang-bu): ngài Buddhayaśas dịch luật sang tiếng Trung Hoa vào năm 410-12, và vào năm 709, hoàng đế Zhongzong đã ra lệnh rằng đây sẽ là bộ luật (vinaya) duy nhất được sử dụng ở Trung Quốc. Sau đó, luật được lưu truyền và được dùng chủ yếu ở Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc và Việt Nam.

– Bộ Luật Căn bản Nhất Thiết Hữu Bộ (Mūlaesarvāstivāda Vinaya) (T. zhi thams cad yod par smra ba, C. genben shuoyiqieyou-bu): Ngài Tịch Hộ (Śāntarakṣita) là đạo sư của trường đại học Nālandā đã đem luật sang Tây Tạng, Mông Cổ (Mongolia) và vùng núi cao của dãy Hy Mã Lạp Sơn (Himalayan).

Hệ thống của các trường phái luật (vinaya) này đã được truyền thừa bằng lời nói trước khi được viết bằng chữ và khoảng cách địa lý không gian giữa chúng là đáng kể. Như vậy, sự tương đồng đáng lưu ý trong việc trình bày đời sống tu viện của họ là điều nổi bật. Tất cả đều tuân theo cùng những giới luật và thực hiện những nghĩa vụ giống nhau trong Tăng già saṅgha (saṅghakamma, saṅghakarma).

Luật Nguyên Thủy (Theravāda vinaya) được chia làm ba phần:

  1. Bộ Phân Tích Giới Bổn (Suttavibhaṅga) chứa đựng giới luật biệt giải thoát (pāṭimokkha). Mỗi giới được giải thích theo bốn phần: Bối cảnh câu chuyện nền tảng khiến cho Đức Phật lập giới, chính giới hình thành, giải thích từ ngữ của giới luật từ Padabhājaniya, lời bình luận cũ, và nhiều câu chuyện cho thấy những tình huống ngoại lệ đặc biệt liên quan đến giới luật này và làm thế nào để đối phó với chúng.
  2. Hợp Phần luật (Khandhaka) gồm có hai tập: Bộ Đại Phẩm (Mahāvagga) đề cập đến các chủ đề như thọ giới, sám hối mỗi hai tuần và tụng giới bồ tát (uposatha, poṣadha), an cư mùa mưa (vassa, varṣā), tự tứ (pavāraṇā, pravāraṇa), vớ, thuốc, y kaṭhina, nội y, và vật dụng tứ sự, vv… Bộ Tiểu Phẩm (Cullavagga) mô tả những hành sự khiển trách, hành sự chỉ dạy, hành sự xua đuổi, hành sự hòa giải, án treo trong việc không nhìn nhận tội, trong việc không sửa chữa lỗi, và trong việc không từ bỏ tà kiến ác, biệt chúng, Tỳ kheo ni và hai bộ tăng già.
  3. Tập Yếu phân tích Giới Luật (Parivāra) là một phụ lục của mười chín chương bao gồm các phần của bộ Phân Tích Giới Bổn (Suttavibhaṅga) và bộ Hợp Phần (Khandhakas). Dường như đây là một sự bổ sung sau đó, do một người Tích Lan (Sri Lanka) viết hay biên soạn.

Bồ Tát Phật Âm (Buddhaghosa) đã soạn Bộ Samantapāsādikā (một bộ sớ giải về Luật Tỳ kheo), vào khoảng thế kỷ thứ năm, và ngài Pháp Hộ (Dhammapāla) cũng viết sớ giải sau đó một thế kỷ. Cả hai ngài Phật Âm (Buddhaghosa) và Pháp Hộ (Dhammapāla) dựa chủ yếu vào các bình luận cũ, được viết tại Chùa Đại Tự (Mahāvihāra) ở Tích Lan (Sri Lanka). Có vài sớ giải về Luật nữa được viết ra sau đó.

Bộ Luật Đàm Vô Đức (Dharmaguptaka vinaya) còn được gọi là Luật tứ phần bởi vì nó bao gồm sáu mươi cuốn được chia trong bốn phần. Nó cũng được chia thành ba loại:

  1. Phân tích Giới Bổn (Sūtravibhaṅga) là luật các Tỳ kheo và Tỳ kheo ni.
  2. Hợp Phần (Skandha) gồm các vấn đề tu tập liên quan tăng già được sắp xếp thành hai mươi phẩm. Nội dung của nó tương tự như luật Hợp Phần (Khandhakas).
  3. Tập yếu (Parivāra) là phụ lục, được biên soạn vào khoảng thế kỷ thứ ba trước Tây lịch. Nó bổ sung cho tập Phân tích Giới Bổn (Sūtravibhaṅga) và Hợp Phần (Skandha) và thảo luận về việc biên soạn luật (vinaya) của hai lần kiết tập đầu tiên và thứ hai. Tập yếu giảng giải những nghi ngờ, mô tả các hoàn cảnh bất thường liên quan đến các giới luật, và đề cập đến các chủ đề thích hợp khác.

Luật Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ (Mūlasarvāstivāda vinaya) gồm có bốn phần vinaya-āgama, đã được dịch từ tiếng Phạn sang tiếng Tây Tạng như sau:

  1. Phẩm luật (Vinayavastu) tương ứng với Hợp Phần (Khandhaka) và bao gồm 17 phần: lễ xuất gia, lễ Uposatha (Bố Tát), lễ Tự Tứ (Pavāraṇā), việc an cư mùa mưa, che tội, thuốc, y áo, y kaṭhina, tranh chấp tại Kausambi, các lễ nghi, biện pháp kỷ luật, người, thay đổi nơi ở, bị biệt chúng, nơi ở và giường nằm, tranh chấp, và phân ly, v.v…
  2. Phân Tích Luật (Vinayavibhaṅga) kể các câu chuyện nguồn gốc giới Tỳ kheo (bhikṣu) và Tỳ kheo ni (bhikṣuṇī) được thành lập, giải thích chi tiết về mỗi giới luật và ngoại lệ. Nó tương ứng với bộ Phân Tích Luật bằng tiếng Pali (Pāli Suttavibhaṅga).
  3. Bộ Tạp Luật (Vinayakrudrakavastu) bàn về những điều luật nhỏ của các Tỳ kheo và các Tỳ kheo ni.
  4. Các Vinayottaragrantha làm rõ những điểm sâu sắc và khó khăn của ba phần ở trên.

Người Tây Tạng theo các sớ giải luật của các đạo sư Ấn Độ như ngài Đức Quang (Guṇaprabha) và Thích Ca Quang (Śākyaprabha). Guṇaprabha là một học giả Ấn Độ rất thông suốt kinh, luật và luận. Những sớ giải của ông như Kinh Luật (Vinaya Sūtra) và Bách Nhất Yết Ma (Ekottarakarmaśataka) được sử dụng để nghiên cứu về giới luật nhà Phật.

Số lượng và ý nghĩa của giới luật trong ba bộ luật (vinaya) rất giống nhau, và sự khác biệt chỉ là nhỏ. Chẳng hạn, bảy giới có liên quan đến cách mặc nội y trong bộ Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ (Mūlasarvāstivāda) là được gộp vào một giới trong Luật Nguyên Thủy.

Số Giới Theo Mỗi Truyền Thống

Bộ Luật Vinaya Giới Tỳ Kheo – Bhikṣu Nguyên Thủy 227

Đàm Vô Đức 250

Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ 253

Giới Tỳ kheo ni – Bhikṣuṇī Nguyên Thủy 311

Đàm Vô Đức 348

Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ 364

Giá trị của tập thể Tăng già 

Theo truyền thống Phạn (Sanskrit), quy y tăng bảo là bất cứ người nào, dù xuất gia hay tại gia, là người đã trực tiếp giác ngộ tánh Không. Tăng già (Saṅgha) là tập thể các bậc xuất gia hướng về thanh tịnh giải thoát tu viện có ít nhất bốn vị xuất gia được đào tạo đầy đủ. Tăng già (saṅgha) đại diện cho Tăng bảo (Saṅgha Jewel), mặc dù không phải ai là tăng sĩ cũng đã trực tiếp giác ngộ tánh Không. Để hoàn thành trách nhiệm của một tăng già (saṅgha) thanh tịnh, tăng ni phải thực hiện ba bổn phận ở chùa – sám hối mỗi hai tuần, an cư kiết hạ cơn mưa, và tự tứ.

Đức Phật cũng nói về “bốn hội chúng” (catuparisā, caturparṣadāh) – cộng đoàn rộng lớn của Đức Phật, bao gồm các Tỳ kheo, Tỳ kheo ni được đào tạo đầy đủ và những Ưu bà tắc (Phật tử nam) và Ưu bà di (Phật tử nữ) đã quy y Tam bảo và giữ năm giới. Gọi một nhóm các Phật tử tại một đạo tràng là Tăng già (saṅgha) là sai, đặc biệt nếu người ta lầm tưởng rằng nhóm Phật tử này là Tăng bảo, một nơi quý báu để nương tựa. Vì lý do này, việc sử dụng từ saṅgha theo nghĩa truyền thống là cộng đồng tăng chúng trong tu viện, chứ không phải Phật tử.

Lý do tăng già (saṅgha) đã được tôn trọng và có giá trị trong suốt lịch sử là các tăng sĩ tu tập đạo đức thông qua việc thực hiện và tuân theo các giới luật Tỳ kheo (bhikṣu) và Tỳ kheo ni (bhikṣuṇī).

Bởi vì các thành viên của Tăng già (saṅgha) sống một đời sống đơn giản và không có bị ràng buộc với các mối quan hệ của gia đình và không phải làm việc để nuôi gia đình, nên tăng chúng có nhiều thời gian hơn để học Pháp và hành Pháp. Như vậy, tăng già (saṅgha) đã chịu trách nhiệm chính trong việc duy trì mạng mạch của Đức Phật trong nhiều thiên niên kỷ bằng cách ghi nhớ, nghiên cứu, suy ngẫm, và thiền định về chúng, và bằng cách truyền dạy cho người khác. Các Phật tử thực hành cũng có đủ khả năng để làm điều này. Tuy nhiên, ngôi nhà của mỗi Phật tử có chức năng khác với chức năng của tu viện. Vai trò của nhà chùa là phục vụ trọn thời gian vào việc hoằng pháp. Khi chúng ta nghĩ về những tăng ni sinh sống cùng nhau trong ngôi chùa để cùng tu học và hành Pháp, chúng ta sẽ cảm thấy phấn khởi, lạc quan, hy vọng và mong muốn đi đến tu viện, ngôi chùa, hoặc đạo tràng để tu học cùng với tăng đoàn (saṅgha).

Tầm quan trọng của việc hoằng pháp là để Phật pháp được tồn tại cho các thế hệ tương lai. Truyền bá chánh pháp được giữ vững khi chúng ta tiếp tục nghiên cứu, giải thích và tu học Phật Pháp. Pháp chứng ngộ được duy trì tiếp tục khi mỗi người chúng ta hành pháp và thực hiện ý nghĩa của những lời dạy đó trong tâm trí của mình. Trong mối liên hệ này, Tăng già (saṅgha) là quan trọng, vì các vị tăng sĩ thực hành rộng rãi và trải nghiệm sâu về giới luật. Đây là nền tảng cho định và tuệ.

Theo kinh điển, liệu học thuyết Phật giáo có phát triển ở nơi nào đó được xác định bởi sự hiện diện của bốn chúng, sẽ tạo ra “một đạo tràng”. Sự tồn tại của tập thể tăng đoàn thực hành giới luật (vinaya), cụ thể bằng cách thực hiện tam vô lậu học, rất quan trọng để làm cho Phật giáo trở thành một truyền thống thanh tịnh sống động trong xã hội. Mặc dù một cá nhân có thể thực hành tốt và được giác ngộ sâu, điều này không tạo thành sự hưng thịnh của một học thuyết ở một nơi.

Lợi ích lớn trong việc trở thành một tăng đoàn sẽ phát triển tự nhiên từ sự quán chiếu sâu sắc về các giáo lý cơ bản của Phật giáo. Như là kết quả của pháp quán từ bi và nhân duyên, người ta trở nên quan tâm đến bản chất của tâm, đưa đến sự đánh giá cao về các học thuyết của tánh không, tái sanh và nghiệp.

Điều này dẫn đến sự hiểu biết về khả năng đạt được giải thoát. Khi chúng ta tin chắc về khả năng này, chúng ta sẽ từ bỏ lối sống cũ một cách tự nhiên để sống một cuộc sống giới hạnh theo các giới luật đạo đức. Từ đó có thể dẫn đến việc xin thọ giới xuất gia. Đức Phật đã giải thích động cơ chân chính để thọ giới (MN 29: 2) như sau:

Ở đây, một người từ bỏ đời sống gia đình để sống đời không gia đình đã suy ngẫm như sau, “Tôi là nạn nhân của sanh, lão, bệnh và chết, sầu, bi, khổ, ưu, và não. Tôi là một nạn nhân của khổ (dukkha), một con mồi của khổ (dukkha). Chắc chắn sự diệt tận của toàn bộ khổ này có thể được đạt được”.

Đức Phật thành lập tăng đoàn cho một mục đích là để vượt qua những phiền não; chúng ta cần trí tuệ đúng như thật, duy trì một quan điểm như vậy, chánh niệm là điều cần thiết. Để có thiền định, chánh niệm và tỉnh thức sâu sắc, chúng ta cần thiết phải rèn luyện giới đức. Giới của các tu sĩ nghiêm khắc hơn Phật tử tại gia và do đó có hiệu quả hơn trong việc tu tập và làm chủ tâm.

Cuộc sống gia đình của một cư sĩ có thể có nhiều màu sắc hơn, nhưng đời sống tu viện sẽ ổn định hơn. Mặc dù sẽ có nhiều khó khăn và đòi hỏi phải từ bỏ quan hệ tình dục, v.v… thì có những lợi ích an lạc ngay trong cuộc đời này. Cách sống tu hành được ca ngợi bởi vì nó có liên quan trực tiếp đến việc phát triển tam vô lậu học (giới, định, tuệ).

Được tam vô lậu học này rất quan trọng, vì sẽ ít người nghĩ sai rằng đời sống tu viện đã lỗi thời hoặc không liên quan đến thời hiện đại. Đạo sư của chúng ta là Đức Phật Thích Ca (Buddha Śākyamuni) là một tăng sĩ. Đức Phật đã sống như một tu sĩ từ khi ngài rời cung điện cho đến khi nhập Niết Bàn – hơn năm mươi năm. Sự tu tập về giới hạnh và đời sống tăng đoàn của ngài là những biểu hiện tự nhiên của sự thanh tịnh tinh khiết trong tâm trí của ngài. Vì vậy, nhiều bậc thầy vĩ đại của Phật giáo cũng đã sống theo cách này, và những mẫu cuộc đời của các ngài đã truyền đạt cho chúng ta tầm quan trọng và lợi ích của đời sống tăng đoàn.

Tuy nhiên, đời sống tăng đoàn không phải thích hợp cho tất cả mọi người. Người ta phải chọn lối sống phù hợp nhất cho bản thân họ và tự tin vào khả năng thực hành của mình. Một Phật tử thuần tâm tu tập luyện tinh thần có thể đạt được chứng ngộ cao. Marpa và đệ tử của ngài Milarepa đã đánh giá cao các vị hành giả, thiền sinh và đạo sư tại gia.

Thực hiện mục đích của tăng đoàn 

Đức Phật mô tả cuộc sống của một tu sĩ như thế nào (DN 2:42)

Sau khi ra khỏi (đời sống trần thế để theo đời sống không nhà của người Tăng sĩ trong Tăng đoàn), vị ấy giữ các giới luật, kiên định giữ hành vi đạo đức đúng đắn, thấy nguy cơ trong những sai lầm nhỏ nhất, quan sát những lời nguyện mà vị tăng sĩ hứa giữ gìn thân, khẩu và ý của mình, thành tâm để biến cuộc sống trở nên thanh tịnh và khéo léo, hoàn thiện trong cách ứng xử đạo đức, giới hạnh, sáu căn được hộ trì, có khả năng thức tỉnh và cần mẫn.

Để nhận giới luật tu sĩ, một người phải được thúc đẩy bởi sự từ bỏ khát vọng thoát khỏi luân hồi (saṃsāra) và đạt được giải thoát. Tuy nhiên, một số người xuất gia với nhiều động cơ thế gian hơn. Kết quả là một số tăng đoàn có những người tăng sĩ tu tập chân chính, trong khi những nơi khác thì không. Sẽ tốt hơn nếu những vị ấy nên hoàn tục trở lại cuộc sống trần thế và làm những Phật tử tại gia thuần thành. Tôi tin rằng cần nhấn mạnh điều cần thiết về chất lượng của các tu sĩ hơn là số lượng.

Một bước nữa là sẽ lọc những Tăng sĩ cẩn thận hơn và đảm bảo rằng Tăng sĩ sau khi xuất gia được đào tạo và hướng dẫn đúng đắn từ những đạo sư trí tuệ.

Đắp y và cạo đầu không đủ để trở thành vị tăng sĩ, vị ấy phải giữ giới thanh tịnh. Nhận lễ cúng dường nhưng không giữ các giới luật sẽ hủy hoại nghiệp và khi nghiệp xấu chín muồi sẽ tái sinh trong cảnh giới bất hạnh. Bài sớ giải về Tăng Chi Bộ kinh giải thích bốn cách thọ hưởng dùng tứ sự (thực phẩm, quần áo, chỗ ở và thuốc men).

i. Thọ hưởng như tên trộm: nếu vị tăng vi phạm giới luật, có hành vi kém đạo đức, nhưng vẫn sử dụng các vật dụng cần thiết do thí chủ cúng dường, điều này giống như ăn cắp vì những điều kiện tiên quyết để nhận cúng dường là tu hành nghiêm chỉnh để thí chủ có phước.

ii. Thọ hưởng như món nợ là nếu vị tăng sĩ có hành vi đúng đắn, giữ giới, hưởng thọ cúng dường mà không quán chiếu lòng tốt, tâm quảng đại, hồi hướng công đức đến thí chủ hiến tặng cho việc cúng dường. Vị Tăng sĩ này không hoàn thành tâm nguyện của thí chủ.

iii. Thọ hưởng như một sự nối tiếp là các bậc thầy thọ hưởng vật cúng dường để tiếp nối con đường trở thành bậc thánh, giống như họ đang sử dụng di sản mà sau này sẽ trở thành của họ.

iv. Thọ hưởng như người chủ là như bậc thánh A La Hán như một chủ sở hữu là sử dụng các vật cúng dường. Vì các ngài đã tận diệt được tất cả các lậu hoặc và đã hoàn thành mục tiêu giải thoát, thì những sản phẩm cúng dường xứng đáng là của họ, xứng đáng thọ nhận.

Như Đức Phật chỉ ra (MN. 29: 2), một số người có thể bắt đầu cuộc đời của họ như là một tăng sĩ với những động lực chân thành nhưng sau đó bị phá hoại bởi tám điều cám dỗ giống người đời. Họ trở nên nhận cúng dường và tôn trọng, điều này dẫn họ đến tự ca ngợi tôn vinh mình và chê bai người khác. Do say mê với sự gia tăng về vật chất và tiếng tăm, họ sinh lòng tự mãn và buông lung cẩu thả, sống trong đau khổ và tạo ra những nguyên nhân cho những đau khổ trong tương lai.

Những vị khác thực hành đạo đức tốt nhưng kiêu ngạo, ca ngợi chính mình cho việc giữ giới luật thanh tịnh và chê bai người khác vì buông lung cẩu thả. Kiêu ngạo như vậy làm cho họ trở nên tự mãn và buông lung trong việc phát triển các nhân đức khác. Tương tự như thế, các tu sĩ có thể đạt được sự thanh thản hoặc trải nghiệm sự giải thoát ngắn ngủi với thiền quán sâu sắc. Thiếu thức tỉnh nội tâm, họ trở nên chấp thủ và khao khát về sự thành đạt của họ và do đó mất năng lượng, trở nên tự mãn, và không hoàn thành mục đích tâm linh của họ. Do đó, điều quan trọng là phải luôn luôn khiêm tốn và tập trung vào những thành tựu cuối cùng của giải thoát và giác tỉnh hoàn toàn.

Vị tăng sĩ phải liên tục tăng cường ý chí của mình để từ bỏ tám điều cám dỗ giống thế gian và khổ (duḥkha) để đạt được giải thoát. Là tăng sĩ, nhiệm vụ của chúng ta là học hỏi, suy ngẫm trầm tư, và thiền định về những giáo lý sâu sắc của Đức Phật càng nhiều càng tốt.

Để làm điều đó, chúng ta nên dạy, dịch, viết, và hướng dẫn người khác trong thực tập để Pháp có thể tồn tại lâu trong thế giới của chúng ta. Nếu vị tăng sĩ không hoàn hảo, và chúng ta có thể thấy vị ấy cư xử theo cách không thích hợp. Lúc đó, chúng ta nên cố gắng hết sức để giúp vị này sửa hành vi của vị ấy. Nhưng chúng ta không được để cho hành vi xấu của một cá nhân khiến chúng ta mất niềm tin vào toàn bộ tăng già (saṅgha). Chúng ta nên tránh bị chỉ trích tất cả tăng sĩ trong tăng đoàn, vì chỉ dựa trên hành vi phi đạo đức của một vị.

Thầy, Tu sĩ và Giáo thọ (Monastic, Priest and Lay teachers)

Ở Tây Tạng, có hai cộng đồng: “trắng” và “nâu sẫm”. Màu trắng dùng để chỉ các Phật tử, bởi vì họ mặc quần áo trắng phổ biến cho Phật tử tại gia. Mặc dù họ không theo các hình thức bên ngoài của đời sống xuất gia, chẳng hạn như cạo đầu, họ tuân giữ năm giới cũng như Bồ Tát giới và tu luyện theo mật giáo (Tantric). Y nâu sậm là đời sống độc thân và tuân theo sự kiềm chế đạo đức giới luật của các tu viện. Bên ngoài, các ngài choàng một tấm y màu.

Ở Tây Tạng, cả hai cộng đồng này đã thực hành theo hướng rõ ràng như vậy. Tuy nhiên, hôm nay chúng ta tìm thấy có một nhóm những người không ở trong hai cộng đồng trên. Chúng ta thấy các tu sĩ đã mặc quần áo tại gia và các Phật tử tại gia đắp y nâu sẫm. Công chúng bối rối và hỏi, “Người này trông giống như một tu sĩ nhưng lại có vợ và mặc đồ trang sức. Làm thế nào?” Ngay cả chúng tôi cũng bối rối khi nhìn thấy những người này!

Đây cũng là một vấn đề trong cộng đồng Phật giáo quốc tế nói chung. Nhiều người trở nên bối rối khi không thể xác định rõ ràng tình trạng của tăng và tục: người này là một tu sĩ, một thầy giáo tại gia, một tăng sĩ? Bây giờ chúng tôi có thể trông đợi từ những vị tu tập khác nhau này cái gì nếu không thể phân biệt giữa họ?

Danh hiệu gây nhầm lẫn. Từ khi lễ thọ giới (prātimokṣa) không có ở Nhật Bản, giáo sĩ Nhật Bản thường kết hôn. Tôi khuyên các tăng sĩ kết hôn đã lập gia đình của tất cả các truyền thống Phật giáo được gọi là giáo sĩ. Tôi nghe nói rằng Tổ chức Thế giới Hiệp Hội Phật Giáo Thế giới đề cập đến những vị tăng có thọ giới (vinaya) là “Thượng Tọa” (Venerable) và những người được kết hôn là giáo sĩ (Reverend). Điều này rất hữu ích.

Về trang phục, sẽ tốt hơn nếu các tu sĩ, giáo sĩ, và Phật tử có các trang phục đặc biệt riêng của mình. Nhiều lần tôi đã yêu cầu thầy giáo tại gia theo truyền thống Tây Tạng mặc trang phục dành cho người cư sĩ của Tây Tạng hoặc phương Tây là y dưới màu trắng và khăn choàng trên màu trắng với vài vạch màu nâu đỏ. Bằng cách này, mọi người sẽ biết rằng họ không phải là tăng sĩ và sẽ có thể liên hệ với họ theo cách đó.

Tuy nhiên, nhiều người trong số này tiếp tục đắp trông giống như y tăng sĩ. Chúng tôi bất lực, không có thể làm được về điều này.

Vị tăng sĩ phải đắp y, trừ khi có một số tình trạng trong công việc nguy hiểm phải không đắp y. Ví dụ như nếu họ đang làm công việc thủ công, tránh dơ y, cháy y…

Tu viện Tây Tạng và tu viện của các truyền thống khác

Tăng sĩ Tây Tạng và một số tăng sĩ theo truyền thống khác như Nguyên Thủy (Theravāda), Đàm Vô Đức (Dharmaguptaka), và Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ (Mūlasarvāstivāda) không ăn sau trưa, và nhiều tu sĩ Nguyên Thủy thường đi khất thực sẽ không nhận tiền cúng dường. Đây thật là điều tuyệt vời. Do phần lớn dân chúng Tây Tạng đều là tăng sĩ thọ giới, việc không nhận tiền này sẽ ngăn chặn nhiều điều tiêu cực xảy ra.

Trước năm 1959, khoảng một phần tư dân số nam giới ở Tây Tạng là nhà sư. Ở Tây Tạng và bây giờ ở Ấn Độ, một số tu viện có hàng ngàn nhà sư và bằng sĩ số của cư dân ở các thị trấn nhỏ. Những tu viện lớn này cũng là những trường học có chương trình học toàn thời gian kéo dài khoảng 20 năm và bao gồm các bài giảng, học thuộc lòng, tranh luận, tụng giới (vinaya), nghiên cứu cá nhân, và các buổi lễ tập thể. Nhiều thanh niên trẻ trai tham gia các tu viện, nhiều trẻ em và thanh thiếu niên đang học thuộc lòng và tu học, những tu viện này đầy những hoạt động tích cực. Các nhà sư lớn tuổi đi đến những nơi xa để thiền định cho khỏi bị xáo trộn loạn động.

Truyền thống tranh luận (debate) bắt nguồn từ Ấn Độ cổ đại. Chính Đức Phật đã tranh luận về các nguyên lý triết học với các sa môn (śramaṇa) và người Bà la môn (Brahman) thời đó. Trong những thế kỷ sau này, các trường đại học Phật giáo lớn của Ấn Độ đã sử dụng tranh luận như một công cụ học tập và thiết lập tính hiệu lực trong giáo lý của Đức Phật khi được các học giả không phải là Phật giáo thách thức kiến thức. Phật giáo Tây Tạng đã tiếp tục truyền thống này.

Một yếu tố then chốt trong cuộc tranh luận là có một số lượng lớn các tu sĩ đang chia sẻ những ý tưởng đa dạng của họ. Với dân số đông đảo tại các tu viện lớn này, người dân địa phương không thể cống hiến thực phẩm hàng ngày, và đường phố sẽ bị kẹt với hàng ngàn tu sĩ đi khất thực! Trong khi Phật tử cúng dường thực phẩm cho các tu viện, sẽ cảm thấy khó khăn khi nấu cho cả hàng ngàn, vì vậy nhiều nhà sư phải chia nhóm, để đích thân nấu các bữa ăn trong tu viện. Điều này đòi hỏi việc mua và nấu thức ăn của chính họ, đòi hỏi phải có tịnh tài.

Tuy nhiên, ở Tây Tạng và trong những năm đầu lưu vong ở Ấn Độ, một số nhà sư tiếp tục học tập, nghiên cứu và thực hành với bụng của họ chỉ có một nửa phần ăn. Tôi biết một số nhà sư xuất sắc hiện nay là Đạo sư đã sống như thế ấy.

Thử thách cho các Tăng sĩ Phương Tây

Tình hình đối với các tu sĩ phương Tây trong truyền thống Tây Tạng là đặc biệt khó khăn, vì ít có các tu viện được thành lập ở phương Tây và sống ở Ấn Độ với nhiều khó khăn về thị thực visas, sức khỏe và ngôn ngữ. Một số đạo sư không sàng lọc và chuẩn bị cho các tăng sĩ phương Tây trước khi xuất gia hoặc đào tạo thích hợp cho họ sau đó, và tăng sĩ phương Tây gặp khó khăn về tài chính. Trong một cuộc hội nghị với các tăng sĩ Phật giáo phương Tây vào năm 1993, một số tu sĩ phương Tây đã nói với tôi về những khó khăn mà họ phải đối mặt, và chúng tôi không thể không khóc.

Chúng ta phải nghĩ làm thế nào để cải thiện tình trạng này. Giải pháp tốt nhất là để các tu sĩ phương Tây thành lập các tu viện và phát triển các chương trình đào tạo của họ. Người Tây Tạng sẽ giúp đỡ trong khả năng từ phía chúng tôi.

Chúng tôi đánh giá cao phương pháp tiếp cận dần dần trong nhiều tu viện, nơi các tăng sĩ trải qua nhiều giai đoạn trước khi thọ giới cụ túc. Điều này cho tăng sĩ thêm thời gian để suy nghĩ về đời sống tu viện và quán sát xem nó có phù hợp với họ hay không. Tương tự, tăng đoàn có cơ hội để quan sát sự phù hợp của từng tăng sĩ.

Tôi khuyến khích những người phương Tây xem tu sĩ sống trong một tu viện như là người cư sĩ tại gia thực tập trong một thời gian để họ có thể trải nghiệm cuộc sống và thực hành theo cách này. Nếu điều này hợp với họ, họ có thể từ từ tiến hành giữ các giới luật từ thấp lên cao và có thể điều chỉnh cho từng mức độ trước khi thực hiện quyết tâm sâu hơn.

Nên sống chung với các tu sĩ khác – dù họ là đạo sư, bạn đạo, hay học trò của chúng ta – đều có giá trị. Mặc dù các tu viện ở phương Tây hiện nay hiếm hoi, hy vọng sẽ có nhiều tu viện được thành lập trong tương lai. Những Tăng sĩ nào không sống trong một cộng đồng Tăng già thì nên tạo dựng với những bạn đạo cùng giới phẩm, quan điểm, lý tưởng giải thoát, và cố gắng tiếp xúc với các tu sĩ sống ở những nơi khác. Lúc đó, họ có thể thảo luận về Phật Pháp và những thách thức mà họ phải đối mặt.

Người nữ được thọ Cụ Túc Giới

Trong những năm qua, tôi đã nói nhiều lần về việc giới cụ túc Tỳ kheo ni (bhikṣuṇī) và bày tỏ ước muốn của tôi hy vọng rằng việc truyền giới này sẽ được ban cho trong truyền thống Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ (Mūlasarvāstivāda vinaya) của chúng ta. Khi ngài Tịch Hộ (Śāntarakṣita) đưa dòng truyền thừa của vị Tỳ kheo vào Tây Tạng khoảng thế kỷ thứ tám, thật không may mắn khi ngài đã không mang theo luôn giới phẩm Tỳ kheo ni (bhikṣuṇīs), và do đó sự tấn phong bhikṣuṇī không bao giờ được bắt nguồn từ Tây Tạng. Tuy nhiên, Thầy của chúng ta, chính Đức Phật, đã thiết lập giới đoàn Tỳ kheo ni (bhikṣuṇī) trong cuộc đời của ngài, đồng thời khẳng định khả năng của người nữ có thể đạt giải thoát và giác thức hoàn toàn.

Đức Phật cũng bày tỏ ước muốn tổ chức bốn chúng để tồn tại và nói rằng bốn chúng này hòa hợp thực hành Phật pháp, sẽ làm cho lời dạy của Ngài kéo dài lâu hơn trong thế giới này. Vì tất cả những lý do này, điều quan trọng là bhikṣuṇīs đã tồn tại trong cộng đồng Tây Tạng của chúng ta. Điều này trở thành hiện thực bây giờ, khi chất lượng giáo dục của các Sư cô, Ni sư đã được cải thiện rất nhiều. Bây giờ chúng ta thấy nhiều Ni sư trở thành những học giả giỏi. Một số Sư cô đã nhận được bằng cấp tiến sĩ (geshema), có nghĩa là họ nắm vững triết học Phật giáo.

Bất cứ nơi nào tôi đi trên thế giới, tôi thấy nhiều nữ Phật tử. Ở nhiều nơi, họ còn nhiều hơn cả nam giới. Vì thế, phụ nữ có quyền đúng đắn tiếp cận với những trách nhiệm và đặc ân cho việc thọ giới cụ túc này. Là một cá nhân riêng rẽ, tôi không có thẩm quyền tổ chức việc tấn phong bhikṣuṇī trong cộng đồng Tây Tạng. Đây là một vấn đề mà tăng đoàn (saṅgha) tập thể phải quyết định. Trong nhiều năm nay, tôi đã đề nghị có một cuộc gặp gỡ quốc tế về tăng già (saṅga) để quyết định vấn đề này. Để chuẩn bị cho điều đó, sẽ tốt nếu các vị Tỳ kheo Tây Tạng đều đồng ý về một phương cách để truyền giới Tỳ kheo ni (bhikṣuṇī) thuộc hệ phái Luật Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ (Mūlasarvāstivāda). Tôi vui mừng nhận thấy sự hỗ trợ này từ nhiều người gốc Tây Tạng.

Tôi cũng đã chia sẻ vài tài liệu về luật với các nhà lãnh đạo Phật giáo Lào và Thái Lan. Chúng tôi sẽ có một cuộc thảo luận nghiêm túc, và tôi hoàn toàn chắc chắn một số thỏa thuận sẽ đạt được cuối cùng.

Chúng tôi, những người Tây Tạng, rất may mắn khi sau cuộc sát hại của Vua Langtela vào thế kỷ thứ chín, chúng tôi đã có thể phục hồi dòng truyền thừa Tỳ kheo (bhikṣu) đang trên bờ vực tuyệt diệt ở Tây Tạng.

Kết quả là rất nhiều nam Phật tử đã có thể lắng nghe và suy ngẫm Pháp như các tu sĩ được đào tạo đầy đủ, và điều đó đã đem lại lợi ích cho xã hội Tây Tạng cũng như thế giới. Do đó, chúng ta hãy cố gắng hết sức để nghiên cứu vấn đề này và tìm ra một phương pháp để thiết lập tăng đoàn ni giới (bhikṣuṇī saṅgha) nữa. Ở các quốc gia hiện đang có sự tấn phong của bhikṣuṇī, chẳng hạn như Đài Loan, Hàn Quốc và Việt Nam, bhikṣuṇīs lợi ích cho Pháp và xã hội theo nhiều cách. Gần đây, giới đàn Tỳ kheo ni đã được khôi phục lại ở Tích Lan có gần 1000 ngàn Tỳ kheo ni được thọ vào năm 2014 và hiện nay có một số Tỳ kheo ni ở Thái Lan.

Cơ hội bình đẳng trong việc thọ giới là rất quan trọng. Trích dẫn các đoạn trong vinaya, một số giới sư Tây Tạng cho rằng trong những trường hợp đặc biệt, việc truyền giới chỉ do tăng đoàn (bhikṣu saṅgha) đơn độc thực hiện cũng có giá trị. Những trường hợp đặc biệt này bao gồm một nơi mà các Tỳ kheo ni không có mặt để thọ giới, vì không có bhikṣuṇīs cư trú trong khu vực đó hoặc vì nó quá nguy hiểm đối với các bhikṣuṇīs để đi đến nơi đó. Giới sư trước đây và đương đại trong cộng đồng Trung Quốc cũng đồng ý với điều này.

Trong khi đó, một số nữ tu theo Phật giáo Tây Tạng đã nhận được sự tấn phong bhikṣuṇī theo Luật Đàm Vô Đức (Dharmaguptaka vinaya) của tăng đoàn (saṅghas) của Trung Hoa, Việt Nam, hoặc Hàn Quốc. Chúng ta nhận ra các sư cô là bhikṣuṇīs. Tôi khuyến khích họ thực hiện ba hoạt động chính của tăng già (saṅgha) với nhau.

Ngoài việc giới thiệu thọ giới bhikṣuṇī, bhikṣuṇīs cũng phải trở thành đối tượng tôn kính. Do đó, chúng ta phải xem xét các đoạn văn trong các văn bản kinh Phật cũng như các thái độ và thực tiễn trong cộng đồng của chúng ta có định hướng chống lại phụ nữ. Đức Phật muốn saṅgha của mình để phù hợp với nhiều nền văn hoá của thời đại. Là tăng đoàn, chúng ta cũng phải làm điều này trong thế kỷ 21. Vì xã hội hiện đại, cũng như Liên hiệp quốc, nhấn mạnh tầm quan trọng của bình đẳng giới và tôn trọng phụ nữ, chúng ta, những người con Phật, cũng phải làm như vậy.

Lời khuyên cho tăng sĩ 

Bây giờ tôi muốn nói đến những người tăng sĩ. Vì chúng ta đã có được cuộc sống con người quý báu với mọi điều kiện thuận lợi cho việc hành Pháp, bây giờ là thời gian để ngăn chặn khổ đau của luân hồi (saṃsāra). Hãy dành thời gian và cơ hội để hành Pháp mà tu viện đã tạo cơ hội cung cấp cho chúng ta, chúng ta phải làm hết sức mình để từ bỏ các hoạt động không cần thiết để chỉ lo tu dưỡng. Là một tăng sĩ, thực hành quan trọng nhất của chúng ta là từ bỏ phiền não.

Đời sống tăng sĩ không gì hơn là tuân thủ giới luật. Để giữ giới, chúng ta phải quán chiếu tâm của chúng ta, đối đầu và tránh những phiền não. Để làm được điều này, Đức Phật khuyên chúng ta nên sống ẩn dật. Sự tách biệt không có nghĩa là đơn giản chỉ sống một mình ở một nơi xa xôi. Ý nghĩa sâu xa hơn của sự tách biệt là tách rời khỏi những phiền não, những hành động phá hoại và tám điều hấp dẫn của thế gian. Sự tách biệt khỏi ngã và vô minh là tốt nhất. Sự tách rời như vậy đòi hỏi sự phát triển trí tuệ và nhận thức sâu sắc và huấn luyện tâm trí của chúng ta kiên nhẫn và tinh tấn vượt thời gian.

Chúng ta có nhiều giới luật bởi lẽ chúng ta là những con người không hoàn hảo, đang phụ thuộc vào tinh thần của chúng ta. Một cách tự nhiên, khi chúng ta phạm sai lầm, chúng ta không được đối xử nhẹ nhàng. Khi chúng ta vi phạm một giới luật, chúng ta phải phơi bày nó và sử dụng các phương pháp giảng dạy trong luật (vinaya) để sám hối, tịnh hóa nghiệp ác phá hoại và phạm giới. Việc vi phạm các giới trọng sẽ dẫn đến việc mất giới thể, vì vậy chúng ta phải đặc biệt cẩn thận để tránh điều đó. Do mỗi người quyết tâm trở thành tu sĩ, nên chúng ta được thọ giới, chúng ta phải chân thành giữ giới. Nếu chúng ta đắp y nhưng hành vi của chúng ta không tốt, cộng đồng Phật tử tại gia sẽ mất sự tôn trọng đối với Tăng già (saṅgha). Điều đó sẽ rất buồn. Vì vậy, vị tăng sĩ phải thực hành tốt và làm cho mình thành những đối tượng xứng đáng được tôn trọng.

Tăng sĩ giúp đỡ lẫn nhau để phát triển trong Pháp bằng cách cho và nhận sự khen thưởng. Khi một tăng sĩ hành động sai lầm, nhưng không thừa nhận lỗi của mình, với động cơ từ bi chúng ta nên khuyên vị ấy để vị ấy có thể điều chỉnh cách của mình.

Khi chúng ta nhận lãnh sự khiển trách, chúng ta phải lắng nghe một cách trân trọng và quán chiếu những lời dạy của các bậc trưởng thượng về kinh nghiệm giữ giới luật. Bướng bỉnh và không nghe đến lời khuyên của Đức Phật hay lời khuyên của tăng đoàn (saṅgha) sẽ tạo ra rất nhiều trở ngại cho việc tu tập của chúng ta. Khi nhận sự nhắc nhở với tâm khiêm tốn và lòng biết ơn sẽ giúp chúng ta tiến nhanh trong Pháp.

Cho dù chúng ta được thọ giới hay chưa thọ giới, điều quan trọng, đánh giá cao là tính đơn giản trong cuộc sống nhà chùa với giới luật. Đánh giá cao giá trị của đời sống nhà chùa sẽ giúp chúng ta có tiềm năng được tấn phong và thọ giới trong tương lai.

Niềm vui trong Giới luật 

Để diễn tả một cách ngắn gọn sự tôn trọng kỷ luật nhà chùa của tôi, tôi muốn chia sẻ với bạn vài câu tôi viết năm 1973, “Niềm vui của Giới Biệt Giải Thoát (Prātimokṣa)”.

Chúng ta may mắn những người theo

Một đạo sư tối cao của chúng ta, bậc hoàn hảo:

Điều này đang trở thành hiện thực nếu chúng ta có thể gia nhập với lòng tin tuyệt đối vào giới luật.

Bên ngoài trong sáng, bên trong trong sáng,

Sẽ hữu ích và an lạc, cả ở đây và xa hơn,

Là thuốc hay cho cả bản thân và người khác, tuyệt diệu!

Chúng ta đã gặp nhau trên con đường giác ngộ của Đức Thế Tôn!

Mặc dù khó khăn, chúng ta đã gặp phải nó một lần;

Những người nắm bắt nó thậm chí còn ít hơn.

Với quyết tâm vững chắc trong trái tim của chúng ta, hãy quán chiếu các hạnh thanh tịnh bằng mọi phương tiện có thể.

Vượt qua mọi nghi ngờ, giới luật này đã chinh phục những nỗi phiền muộn cực đoan;

Thậm chí cả các khổ đau trong cuộc sống của các chủ hộ

Những gì cần phải đề cập đến rằng giới Phật sẽ làm giảm đau khổ luôn?

Trí tuệ tối cao của tâm bồ đề (bodhicitta) cuộc sống của con đường dẫn tới Bồ Tát hạnh. Thiền định như sự kết hợp của khinh an và trí tuệ sâu sắc,

Những gì sẽ thoát ra được do giữ giới này?

Con đường sâu sắc kỳ diệu của mật tông,

Phương pháp để nhận ra sự vô ngã với mức độ tinh tế nhất của tinh thần đó cũng vậy, được thành lập trên giới luật này.

Trạng thái của một vị phật,

Là sự hiệp nhất không thể tách rời của từ bi và tánh không,

Emaho! Con đường nhanh nhất dẫn đến đạo lộ đó.

Điều đó, cũng vậy, dựa vào giới luật này mà nó thành tựu.

Do đó, vị tăng sĩ có tuệ, đừng coi thường hoặc coi nhẹ giới biệt giải thoát (prātimokṣa),

Bắt nguồn từ kinh của các bậc thánh Thanh Văn (śrāvaka).

Biết rằng giới được ca ngợi là nền tảng và gốc rễ của mọi học thuyết.

Phấn đấu để giữ gìn giới tốt, được hỗ trợ bởi nghiên cứu và phân tích.

Với chánh niệm, nhận thức sâu sắc, và tận tâm.

Giới bảo vệ chúng ta tốt với nỗ lực tối đa

Khiến ta được hoàn hảo và tôn trọng;

Không nên thờ ơ và buông lung phạm giới,

Chánh niệm với nguồn gốc của xây dựng nhân cách tốt.

Bồ Tát và các Giới Mật tông (Tantric)

Những người thực hành Bồ Tát thừa nguyện giữ giới với mong muốn đạt được giác ngộ hoàn toàn, vì lợi ích cho số đông. Các giới luật bồ tát tập trung vào việc làm giảm cái tôi (ngã) bởi lẽ đó là điều cản trợ chính để tạo tâm bồ đề (bodhicitta) và hạnh dấn thân vào Bồ Tát hạnh. Có nhiều phiên bản giới khác nhau của các Bồ Tát được tìm thấy trong Phật giáo Tây Tạng, Trung Quốc và Nhật Bản.

Giới Mật tông (tantric) được thực hiện với động lực mạnh mẽ của tâm bồ đề (bodhicitta), muốn đạt được giác ngộ hoàn toàn một cách nhanh chóng để có thể có lợi cho chúng sinh sớm hơn. Nó bao gồm mười bốn giới, tám giới trọng, và các giới luật khác. Mục đích chính của giới là giúp làm giảm quan điểm nhị nguyên, nhưng củng cố làm mạnh tất cả các hình thái đạo đức, bằng cách cấm chỉ trích giới luật (prātimokṣa) và bồ tát (bodhisattva), khinh chê giáo pháp, và từ bỏ tình thương và tâm bồ đề (bodhicitta).

Không giống như các giới luật (prātimokṣa) tập trung vào thân và khẩu, Bồ tát và giới Mật tông (Tantric) nhấn mạnh đến hành vi đạo đức ở mức độ tâm ý. Ở đây động lực là quan trọng nhất. Điều này có nghĩa là nếu động lực của chúng ta là tinh khiết, chúng ta có thể biến đổi mọi hành động vào Pháp. Tuy nhiên, điều này không cho chúng ta giấy phép để hợp lý hóa hành động ích kỷ của ngã và phi đạo đức bằng cách giả dối nói rằng “động lực của tôi là từ bi bác ái”.

Giới nhấn mạnh việc giảm bớt sự chấp thủ dính mắc, do đó các tăng sĩ không được chạm vào vàng bạc hay những thứ quý giá. Các giới luật Bồ tát, giả định có một sự kiểm soát tâm tốt về chấp trước và nhấn mạnh đến phúc lợi của người khác, chỉ rõ rằng người cúng dường sẽ bị tổn thương nếu chúng ta từ chối món quà bằng tịnh tài của họ. Trong trường hợp đó, chúng ta nên chấp nhận tiền và sau đó sử dụng nó để làm lợi cho người khác. Mặc dù những hành động này bề ngoài có vẻ mâu thuẫn, nhưng chúng đều là những giới luật để áp dụng cho tùy từng trường hợp độ người, lợi đại chúng hay một người trong quá trình huấn luyện.

Các tăng sĩ tuân thủ các giới Mật tông và hứa giữ giới luật thanh tịnh. Điều này sẽ giúp dễ giữ và chuẩn bị tốt hơn cho việc áp dụng giới Bồ Tát và các giới luật Mật tông (tantric) cao hơn. Chúng ta không nên lấy cái cớ thực hành Mật tông rồi bỏ mặc giới luật căn bản của mình. Ngược lại, chúng ta nên nghiêm khắc chặt chẽ giữ giới luật như băng sương, bởi lẽ nếu không, làm sao chúng ta có thể trông đợi có được giới Mật tông, đây là cái khó có thể theo được?

Đức Đạt Lai Lạt Ma 14th & Ni Sư Thubten Chodron

Việt dịch: Ni Sư Thích Giới Hương & Tỳ Kheo Thích Đạo Tỉnh

Trích: Phật giáo, Một bậc Đạo sư, Nhiều truyền thống